Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay

Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”. Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị thế xã hội của viên chức Nhà nước để làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các sơ hở của pháp luật nhằm kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã hội, cho công dân. Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26/02/1998 cũng ghi rõ trong điều 1: “Tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Tham nhũng là vật cản lớn nhất của tiến trình phát triển xã hội, là nguy cơ trực tiếp liên quan đến sự sống còn của các Nhà nước”. Mặc dù được thể hiện theo những cách khác nhau, song tham nhũng được hiểu khá thống nhất trong văn hoá pháp lý ở các nước trên thế giới, đó là việc lợi dụng vị trí, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân, hay nói một cách khác, tham nhũng là việc sử dụng hoặc chiếm đoạt bất hợp pháp công quyền hay nguồn lực tập thể. Tham nhũng là một mối đe dọa đối với sự phát triển, dân chủ và ổn định. Tham nhũng gây nên cái nhìn sai lệch về thị trường, kìm hãm tăng trưởng kinh tế và gây e ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tham nhũng làm giảm chất lượng các dịch vụ công và gây xói mòn niềm tin của người dân vào các quan chức, cán bộ Nhà nước. Tham nhũng cũng góp phần gây nên các thiệt hại về môi trường và đe dọa sức khỏe cộng đồng qua việc tạo điều kiện cho các hành vi đổ trái phép vật liệu phế thải độc hại, sản xuất và phân phối dược phẩm giả. Tác hại của tham nhũng đã không dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô-la của Nhà nước mà còn là một nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế – chính trị, gây mất đoàn kết nội bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân.

docx45 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3483 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
—&œ– Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay MỤC LỤC Lời mở đầu 3 SƠ LƯỢC VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 5 Tính cấp thiết của đề tài 5 Mục tiêu, quan điểm về phòng chống tham nhũng 6 Mục tiêu 6 Quan điểm 6 Phạm vi nghiên cứu 6 Không gian nghiên cứu 6 Thời gian nghiên cứu 6 Lĩnh vực nghiên cứu 6 Chương I: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA 7 Thực trạng của tham nhũng ở Việt Nam 7 Đặc điểm của tham nhũng ở Việt Nam 8 Nguyên nhân của tham nhũng ở Việt Nam 15 Chương II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỐNG THAM NHŨNG VÀ VẬN DỤNG VÀO CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 18 Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng 18 1.1 Đấu tranh, tố cáo nạn tham nhũng trong các chế độ thực dân, đế quốc, thuộc địa và chế độ tay sai bán nước để thức tỉnh quần chúng nhân dân, tiến hành vận động cách mạng 18 1.2. Đấu tranh chống tham nhũng trong lòng chế độ mới 20 Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng chống tham nhũng trong giai đoạn hiện nay 24 2.1. Xác định bản chất tham nhũng và chủ trương biện pháp phòng, chống tham nhũng 24 2.2. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong những năm qua và định hướng của Đảng ta 26 Các giải pháp phòng chống tham nhũng hiện nay của Đảng ta 31 Đối với các cơ quan Đảng 32 Đối với cơ quan Nhà nước 34 Đối với các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và nhân dân 37 KẾT LUẬN 40 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 41 --------œ&-------- LỜI MỞ ĐẦU Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu dân và lấy của”. Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị thế xã hội của viên chức Nhà nước để làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các sơ hở của pháp luật nhằm kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã hội, cho công dân. Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26/02/1998 cũng ghi rõ trong điều 1: “Tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn đó để tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Tham nhũng là vật cản lớn nhất của tiến trình phát triển xã hội, là nguy cơ trực tiếp liên quan đến sự sống còn của các Nhà nước”. Mặc dù được thể hiện theo những cách khác nhau, song tham nhũng được hiểu khá thống nhất trong văn hoá pháp lý ở các nước trên thế giới, đó là việc lợi dụng vị trí, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân, hay nói một cách khác, tham nhũng là việc sử dụng hoặc chiếm đoạt bất hợp pháp công quyền hay nguồn lực tập thể. Tham nhũng là một mối đe dọa đối với sự phát triển, dân chủ và ổn định. Tham nhũng gây nên cái nhìn sai lệch về thị trường, kìm hãm tăng trưởng kinh tế và gây e ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tham nhũng làm giảm chất lượng các dịch vụ công và gây xói mòn niềm tin của người dân vào các quan chức, cán bộ Nhà nước. Tham nhũng cũng góp phần gây nên các thiệt hại về môi trường và đe dọa sức khỏe cộng đồng qua việc tạo điều kiện cho các hành vi đổ trái phép vật liệu phế thải độc hại, sản xuất và phân phối dược phẩm giả. Tác hại của tham nhũng đã không dừng lại ở phương diện thiệt hại vật chất hàng ngàn tỷ đồng, hàng trăm triệu đô-la của Nhà nước mà còn là một nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế – chính trị, gây mất đoàn kết nội bộ, làm suy giảm uy tín của Đảng và Nhà nước trước nhân dân. Ở nước ta, từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa là con đường hoàn toàn mới mẻ. Những năm qua Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách cởi mở, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế phát triển. Tuy nhiên hệ thống pháp luật vẫn thiếu đồng bộ, một số văn bản pháp quy vừa mới ban hành đã sớm lạc hậu so với thực tiễn, tạo nhiều sơ hở, dễ bị lợi dụng. Mặt khác, bước vào cơ chế mới, tâm lý nôn nóng làm giàu có mặt tích cực là động lực thúc đẩy xã hội phát triển, nhưng cũng có mặt tiêu cực là làm cho một số người bị tha hoá, đánh mất chính mình trong chủ nghĩa vị kỷ, hưởng lạc, trong khát vọng làm giàu bằng mọi giá, bất chấp pháp luật, đạo lý. Bộ máy Nhà nước của chúng ta trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau chưa đủ thời gian và kinh nghiệm để cải cách kịp thời, do đó khi bước vào thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trên một số mặt đã bộc lộ không ít khuyết điểm. Tình hình đó cùng với hệ thống thủ tục hành chính rườm rà, bộ máy cồng kềnh, tạo môi trường dung dưỡng cho tệ quan liêu tham nhũng. Hệ thống cơ quan tư pháp, hành pháp, thanh tra, kiểm tra chất lượng và hiệu lực, hiệu quả chưa cao. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa về kinh tế cùng quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, tham nhũng và chống tham nhũng đã trở thành vấn đề nhức nhối của toàn xã hội. Theo tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International – TI), chỉ số minh bạch của Chính phủ Việt Nam thấp và có chiều hướng đi xuống từ 2,8 (năm 1997) xuống còn 2,6 (năm 2005). Đảng và Nhà nước ta xác định, tham nhũng là “quốc nạn”, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ và coi chống tham nhũng là nhiệm vụ thường xuyên của tổ chức Đảng và cả hệ thống chính trị, từ đó yêu cầu chúng ta phải tích cực và chủ động chống tham nhũng có hiệu quả. Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị về việc này (Chỉ thị 15 của Bộ Chính trị; Nghị quyết 114 TTg của TT Chính phủ; Kế hoạch 493/Nc của Chính phủ;... ). Như vậy, Đảng, Nhà nước và nhân dân đều đồng tình kiên quyết chống tham nhũng, nhưng tệ tham nhũng vẫn chưa được đẩy lùi. Do vậy, việc phân tích Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng sẽ giúp chúng ta hiểu rõ bản chất của hiện tượng phức tạp này, trên cơ sở đó đề ra những biện pháp phòng, chống tham nhũng có hiệu quả trong tình hình hiện nay. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay”. SƠ LƯỢC VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước vào thế kỷ thứ 21, tất cả thế giới đang vận hành theo xu hướng mới: hoà bình, đối thoại, hội nhập và cùng phát triển. Các ranh giới ngăn cách về kinh tế, chính trị, tôn giáo, sắc tộc đang dần được xoá bỏ. Việt Nam cũng ở trong xu hướng chung đó. Là một nước đang phát triển, Việt Nam gặp phải nhiều vấn đề thách thức trong quá trình hội nhập, nhất là về kinh tế, khoa học – kỹ thuật và công nghệ. Bằng việc phát huy cao độ nguồn nội lực trong nước và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn hỗ trợ từ nước ngoài, Việt Nam đang cố gắng tiến những bước lớn trên con đường phát triển kinh tế. Nhưng có một thách thức lớn đang cản trở con đường ấy, đó là tệ nạn tham nhũng đang ngày càng gia tăng về mức độ phổ biến, quy mô và thủ đoạn. Có thể nói, tham nhũng là vấn đề toàn cầu. Các quốc gia công nghiệp hoá tất nhiên không hề miễn dịch trước tham nhũng và tất cả đều có trách nhiệm tham gia vào việc tìm ra giải pháp. Tuy nhiên, tham nhũng dường như xâm hại với tỷ lệ cao hơn ở các nước đang phát triển và có nền kinh tế đang chuyển đổi. Tham nhũng ngăn cản nhiều nước vượt qua những thách thức nghiêm trọng nhất của phát triển, cản trở đầu tư trong nước và nước ngoài, làm xói mòn niềm tin trong các tổ chức công cộng, niềm tin của nhân dân đối với Chính phủ, và làm tồi tệ thêm vấn đề ngân sách bằng cách lấy đi tài sản của Chính phủ thông qua các khoản thuế quan và thuế thu nhập đáng kể. Mặc dù tham nhũng là một vấn đề đã được đặt ra từ lâu, nhưng việc nghiên cứu và tìm ra các biện pháp phòng chống tham nhũng luôn là một vấn đề bức xúc đối với mọi quốc gia trên thế giới nói chung và đối với sự phát triển của nước Việt Nam nói riêng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải tích cực và chủ động chống tham nhũng có hiệu quả. Đó là một nhiệm vụ cấp thiết đang đặt ra cho các nhà luật học nói chung và người nghiêm cứu khoa học luật hình sự nói riêng. Trong chuyên đề nghiên cứu này, chúng ta đi sâu vào việc nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng và vận dụng vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay. 2. Mục tiêu, quan điểm về phòng chống tham nhũng 2.1. Mục tiêu: Ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; tạo bước chuyển biến rõ rệt để giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội; củng cố lòng tin của nhân dân; xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính. 2.2. Quan điểm: - Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của toàn dân; thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức hành chính, kinh tế, hình sự. - Phòng, chống tham nhũng, lãng phí phải phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, củng cố hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh. - Vừa tích cực, chủ động phòng ngừa vừa kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, trong đó phòng ngừa là chính. Gắn phòng, chống tham nhũng lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phát huy dân chủ, thực hành tiết kiệm, chống chủ nghĩa cá nhân, chống quan liêu. - Phòng, chống tham nhũng, lãng phí là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực và có trọng tâm, trọng điểm. - Kế thừa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chú trọng tổng kết thực tiễn và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của nước ngoài. 3. Phạm vi nghiên cứu 3.1. Không gian nghiên cứu: Việt Nam. 3.2. Thời gian nghiên cứu: Hiện nay. 3.3. Lĩnh vực nghiên cứu: Tham nhũng ở Việt Nam. CHƯƠNG I THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA 1. Thực trạng của tham nhũng ở Việt Nam Qua hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt. Những kết quả đạt được từ việc đổi mới hệ thống chính trị, cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật và hội nhập quốc tế tạo ra tiền đề quan trọng cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được, công cuộc đổi mới đất nước đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó có tệ tham nhũng. Tham nhũng thực ra không phải chuyện mới lạ ở Việt Nam, trong thời chiến chúng ta cũng đã từng có, từng xử nhiều vụ tham nhũng lớn. Tuy nhiên, kể từ thời kỳ đổi mới, nền kinh tế xã hội nước ta có những bước phát triển mạnh mẽ thì cũng đồng thời với một sự đánh đổi là tham nhũng xảy ra nhiều hơn với mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn. Tham nhũng có ở mọi nơi, mọi lúc, nó len lõi đến mọi ngõ ngách, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giảm uy tín của Đảng và Nhà nước, cản trở công cuộc phát triển đất nước của chúng ta. Ở nhà thấy tham nhũng (tin tức trên báo chí, ti-vi), ra đường gặp tham nhũng, vào bệnh viện, đến trường học, đến cơ quan công quyền... đâu đâu cũng có thể chứng kiến tham nhũng. Đó là những vụ nhỏ lẻ, còn có những vụ rút ruột công trình xây dựng (được cho là thất thoát trung bình từ 30 – 40%), mua sắm trang thiết bị, những vụ tham nhũng theo “mô hình tập đoàn"… mà các vụ được phát hiện càng về sau cứ “lớn nhất từ trước đến nay”. Tham nhũng xuất hiện trong mọi khâu, mọi lĩnh vực, ở mọi ngành, mọi cấp. Từ các cơ quan quản lý, các đơn vị hành chính sự nghiệp tới các doanh nghiệp nhà nước, hiệp hội, tổ chức... Tham nhũng không loại trừ các cơ quan bảo vệ pháp luật (tòa án, viện kiểm sát, quân đội, cảnh sát...) và thậm chí ngay cả ở cơ quan chống tham nhũng. Đến nay chúng ta chưa có những nghiên cứu toàn diện và bài bản để đánh giá, đo lường mức độ tham nhũng. Tuy nhiên, trên thế giới đã có một tổ chức làm việc đó, đó là Transparency International (TI – Tổ chức Minh bạch Quốc tế). Hàng năm, tổ chức này tiến hành các công trình khảo sát nghiên cứu ở các quốc gia (do các viện nghiên cứu độc lập triển khai), tổng hợp kết quả, tính toán chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) và đưa ra bảng xếp hạng minh bạch các quốc gia. Mức độ tham nhũng càng cao nếu chỉ số CPI càng thấp. Năm 2008, tổ chức TI tiến hành khảo sát 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, kết quả xếp hạng: Việt Nam đứng thứ 121, cải thiện được hai bậc so với năm 2007 với chỉ số CPI là 2,7 điểm. Xét trong khu vực Đông Á, Việt Nam đứng thứ 9; còn Singapore với chỉ số CPI là 9,2 điểm, đứng đầu khu vực về độ trong sạch (đứng thứ 4 trong số 180 quốc gia và vùng lãnh thổ), theo sau là Hồng Kông và Nhật. Đáng buồn là Việt Nam luôn đứng ở nhóm cuối trong bảng xếp hạng này và không những thế còn có xu hướng “rớt hạng”. Nhận thức sâu sắc về tác hại của tham nhũng, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật về vấn đề này, bên cạnh đó đã tham gia tích cực các diễn đàn quốc tế về phòng, chống tham nhũng. Sau khi Luật phòng, chống tham nhũng có hiệu lực (01/06/2006) đã tác động đến nhận thức và hành động của các cấp các ngành trong việc đấu tranh chống tham nhũng và tạo ra bước chuyển biến khá tích cực. Tuy nhiên tình trạng tham nhũng vẫn diễn biến khá phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. 2. Đặc điểm của tham nhũng ở Việt Nam Ở Việt Nam, các nhà khoa học pháp lý nhìn nhận tham nhũng trên các bình diện: chính trị, kinh tế, pháp lý, đạo đức, truyền thống… và đặc biệt là bằng công cụ của tội phạm học để ghi nhận tính chất, đặc điểm và mức độ của tham nhũng. Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng phải là những người có chức vụ quyền hạn làm việc trong bộ máy Nhà nước ở các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp từ Trung ương đến địa phương, cán bộ Đảng và các đoàn thể. Thứ hai, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ quyền hạn, lợi dụng địa vị công tác được giao để không làm hoặc làm trái với công vụ mà mình phải thực hiện và thực hiện đúng qui định của pháp luật, gây thiệt hại chung cho lợi ích của Nhà nước, xã hội và công dân. Thứ ba, người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi với động cơ vụ lợi cho bản thân, cho người khác hoặc một nhóm người mà mình quan tâm. Về bản chất, tham nhũng là một hiện tượng xã hội phản ánh các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hoá, truyền thống, tập quán của một dân tộc, một quốc gia; tham nhũng bao gồm những hành vi nguy hiểm ở mức độ cao cho xã hội, nhà nước và nhân dân. Hậu quả do tham nhũng gây ra cực kỳ lớn cho xã hội, hậu quả này không chỉ phải là những thiệt hại về vật chất với nhiều tỷ đồng, mà điều quan trọng hơn, nó làm tha hoá một bộ phận của cán bộ, công chức của bộ máy Nhà nước, trong tổ chức Đảng và các đoàn thể xã hội, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào bộ máy Nhà nước, gây nên sự bất bình, oán thán trong nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội, làm giảm hiệu lực quản lý của Nhà nước, đe doạ sự tồn vong của quốc gia dân tộc. Tham nhũng là tệ nạn mang tính chất toàn cầu, tuy nhiên không phải ở bất kỳ nơi nào trên thế giới biểu hiện, tính chất, phạm vi của tham nhũng cũng giống nhau mà ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau do đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau. Qua nghiên cứu, có thể thấy được tham nhũng ở Việt Nam có những đặc điểm sau: Thứ nhất, về tính chất của tham nhũng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay chưa ở mức đặc biệt nghiêm trọng so với khu vực và thế giới. Khi nói đến tính chất của hành vi vi phạm hoặc hành vi phạm tội, người ta thường xác định ở mức độ gây ra thiệt hại của hành vi (thiệt hại về vật chất và phi vật chất) và quan hệ xã hội được bảo vệ bị hành vi đó xâm hại. Xét cả trên hai bình diện này thì tham nhũng ở Việt Nam chưa đến mức trầm trọng như tham nhũng ở một số nước trên thế giới bởi những lý do sau: - Theo thống kê và báo cáo của các cơ quan có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng thì những thiệt hại về vật chất do tham nhũng gây ra ít hơn rất nhiều so với những thiệt hại do các loại vi phạm khác gây ra, hàng năm thiệt hại do tham nhũng gây ra khoảng vài trăm tỷ đồng trong khi đó thiệt hại do những vi phạm và tội phạm khác gây ra là hàng trăm nghìn tỷ đồng. Mặt khác, theo báo cáo của cơ quan công an thì các tội tham nhũng trong những năm qua có xu hướng giảm, chẳng hạn: Năm 1997 cơ quan điều tra các cấp đã phát hiện, khởi tố 3856 vụ án kinh tế (tăng 5,6% so với năm 1996), trong đó các tội về tham nhũng tăng đáng kể: tham ô 594 vụ (tăng 14%), lừa đảo chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ nghĩa (có liên quan đến cán bộ trong các cơ quan Nhà nước) 273 vụ (tăng 37,1%); lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ nghĩa 350 vụ (tăng 3,2%). Năm 1998, khởi tố 3546 vụ án kinh tế (giảm 8,1% so với năm 1997), trong đó tham ô 534 vụ, lừa đảo 217 vụ, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ nghĩa 284 vụ. Năm 1999, khởi tố 3016 vụ án kinh tế (giảm 15,% so với năm 1998), trong đó: tham ô 465 vụ; lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản Xã hội Chủ Nghĩa 169 vụ... - Chưa có tham nhũng chính trị ở Việt Nam với những biểu hiện như đầu cơ chính trị, buôn bán chức quyền trong bộ máy cơ quan Nhà nước... vì thế tham nhũng chưa xâm hại đến sự tồn tại của chế độ, đến nền độc lập và chủ quyền quốc gia của dân tộc. Đồng thời tham nhũng ở Việt Nam chưa có nguy cơ gây khủng hoảng nền kinh tế, chính trị và xã hội. - Lâu nay ở Việt Nam, khi đánh giá tham nhũng thường theo quan điểm của cơ quan điều tra, thường lấy số lượng các vụ án kinh tế để chứng minh nạn tham nhũng. Do vậy, những con số về thiệt hại do tham nhũng của các cơ quan có trách nhiệm chưa đúng với bản chất của tham nhũng nên cách nhìn nhận và đánh giá đó chưa chuẩn xác vì: các bị can, bị cáo về kinh tế, không phải tất cả họ đều bị xét xử về tội tham nhũng mà phần nhiều họ bị chịu trách nhiệm về hành vi thiếu trách nhiệm hoặc cố ý làm trái… tội phạm không có động cơ vụ lợi hoặc không do lợi dụng chức vụ quyền hạn để vụ lợi. Các cán bộ bị kỷ luật hành chính liên quan đến các vụ án cũng là do phải chịu trách nhiệm về hành vi quản lý (chủ quan, buông lỏng quản lý, năng lực quản lý yếu kém mà thực chất là quan liêu) chứ không phải do hành vi tham nhũng. Chẳng hạn: Những vụ án gần đây như Tân Trường Sanh, Minh Phụng – EPCO… trừ một số cán bộ cấp phòng, sở, cục của hai ngành Hải quan và Ngân hàng bị truy tố về các tội tham nhũng còn đa phần các cán bộ khác, kể cả những cán bộ chủ chốt của hai ngành đó chỉ bị xử lý về trách nhiệm quản lý, dễ dãi trong quan hệ, chứ không phải tham nhũng. Hoặc trong vụ án được coi lớn nhất trong lịch sử tư pháp Việt Nam được xét xử tại Thành phố Hồ Chí Minh – Vụ án Trương Văn Cam và đồng bọn có liên quan đến rất nhiều quan chức trong ngành tư pháp từ Trung ương đến địa phương, nhưng tài sản có được do tham nhũng không nhiều (vài chục ngàn đô-la và những bữa tiệc tại các nhà hàng sang trọng cho mỗi quan chức) và có nhiều quan chức chỉ bị truy cứu trách nhiệm về hành vi thiếu trách nhiệm trong quản lý mà không bị truy cứu trách nhiệm về các hành vi tham nhũng mà điển hình là bị cáo Bùi Quốc Huy, nguyên Giám đốc Công an Thành phố Hồ Chí Minh, nguyên thứ trưởng Bộ Công an, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng... Cũng cần phải nói thêm là, số tài sản bị thất thoát trong các vụ án kinh tế không phải đều là tài sản bị tham nhũng mà phần nhiều là do làm ăn thua lỗ hoặc là hậu quả của phương thức làm ăn sai lầm của các doanh nghiệp. Từ sự phân tích trên có thể nhận định về tính chất tham nhũng ở Việt Nam chưa đến mức trầm trọng như lâu nay chúng ta vẫn nghĩ. Nhận thức đúng thực trạng tham nhũng tránh được cho chúng ta hai khuynh hướng tiêu cực: hoặc quá bi quan về nạn tham nhũng hoặc quá lạc quan về sự trong sạch của đội ngũ cán bộ trong các cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội. Vì v
Luận văn liên quan