Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng về dân vận - một bộ phận
hết sức quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho Đảng và nhân dân các
dân tộc ở nước ta.
Có thể nói, tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh không những chứa đựng tinh thần
trọng dân, thương dân, hết lòng chăm lo lợi ích của nhân dân, nhận rõ sức mạnh của nhân
dân, mà còn chỉ ra nội dung và phương thức vận động, tập hợp nhân dân.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn luôn xác định rõ vai trò, vị trí
quan trọng của công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng. Bước vào thế kỷ XXI, đất
nước đứng trước nhiều thời cơ và thách thức lớn; trong đó thách thức nổi bật là âm mưu
của các thế lực thù địch hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.
Do đó, công tác dân vận lúc này cần phải được đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa với
những nội dung phù hợp với tình hình mới của đất nước và thế giới nhằm phát huy cao
độ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp đổi mới
đất nước.
Trong 20 năm đổi mới vừa qua (1986-2006), công tác dân vận do Đảng tổ chức,
lãnh đạo đã tạo ra động lực lớn cho các phong trào thi đua yêu nước, góp phần không nhỏ
làm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, chống lại có hiệu
quả âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, tạo thế và lực cho đất nước;
đồng thời góp phần mở rộng quyền dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác dân vận vẫn còn một số yếu
kém cần được khắc phục. Việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhiều nơi còn làm hình thức, chiếu lệ. Đáng tiếc
các cấp uỷ đảng, cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên ở một số nơi vẫn chưa nhận thức
đúng vị trí và tầm quan trọng của công tác dân vận, thậm chí còn xem nhẹ công tác này,
không coi đó là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị.
95 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 7284 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và sự vận dụng vào công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình trong những năm đầu thế kỷ XXI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và
sự vận dụng vào công tác vận động nông
dân ở tỉnh Quảng Bình trong những
năm đầu thế kỷ XXI
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng về dân vận - một bộ phận
hết sức quan trọng trong toàn bộ di sản vô giá mà Người để lại cho Đảng và nhân dân các
dân tộc ở nước ta.
Có thể nói, tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh không những chứa đựng tinh thần
trọng dân, thương dân, hết lòng chăm lo lợi ích của nhân dân, nhận rõ sức mạnh của nhân
dân, mà còn chỉ ra nội dung và phương thức vận động, tập hợp nhân dân.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn luôn xác định rõ vai trò, vị trí
quan trọng của công tác dân vận đối với sự nghiệp cách mạng. Bước vào thế kỷ XXI, đất
nước đứng trước nhiều thời cơ và thách thức lớn; trong đó thách thức nổi bật là âm mưu
của các thế lực thù địch hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.
Do đó, công tác dân vận lúc này cần phải được đẩy mạnh và tăng cường hơn nữa với
những nội dung phù hợp với tình hình mới của đất nước và thế giới nhằm phát huy cao
độ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi mục tiêu của sự nghiệp đổi mới
đất nước.
Trong 20 năm đổi mới vừa qua (1986-2006), công tác dân vận do Đảng tổ chức,
lãnh đạo đã tạo ra động lực lớn cho các phong trào thi đua yêu nước, góp phần không nhỏ
làm chuyển biến tình hình kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, chống lại có hiệu
quả âm mưu "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, tạo thế và lực cho đất nước;
đồng thời góp phần mở rộng quyền dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác dân vận vẫn còn một số yếu
kém cần được khắc phục. Việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước còn thiếu đồng bộ, nhiều nơi còn làm hình thức, chiếu lệ. Đáng tiếc
các cấp uỷ đảng, cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên ở một số nơi vẫn chưa nhận thức
đúng vị trí và tầm quan trọng của công tác dân vận, thậm chí còn xem nhẹ công tác này,
không coi đó là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Tình trạng một số cán bộ,
đảng viên quan liêu, ngại đi cơ sở nắm bắt nguyện vọng của nhân dân, thậm chí lợi dụng
chức quyền, làm trái đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước để tham nhũng, trục
lợi, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân còn khá phổ biến. Tình trạng này là nguyên
nhân chính gây ra các vụ khiếu kiện, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng và
Nhà nước.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước, yêu cầu
tập hợp, đoàn kết, vận động nhân dân tiếp tục được đặt ra một cách bức thiết. Do vậy,
công tác dân vận đã được đề cập trong nhiều nghị quyết của Đảng, đặc biệt Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá IX, có ba nghị quyết về công tác dân vận
nhằm đáp ứng những yêu cầu bức thiết của nhân dân và huy động tối đa nội lực, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Vì vậy, nghiên cứu, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác dân vận và tích cực đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào cuộc sống, tạo ra
sự chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong công tác vận động nhân dân là một đòi hỏi bức
thiết hiện nay.
Với những lý do đó, tôi chọn đề tài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và sự
vận dụng vào công tác vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình trong những năm đầu
thế kỷ XXI" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí
Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận là một công việc cấp thiết
trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu này được nhiều cơ quan, tổ chức và
nhiều nhà khoa học quan tâm thực hiện và đã có nhiều công trình nghiên cứu được công
bố. Sau đây là một số công trình tiêu biểu mà tôi đã tham khảo:
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận của TS. Đỗ Quang Tuấn, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2005; Khái niệm, nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng của Hồ
Chí Minh về dân vận của PGS.TS Nguyễn Bá Linh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2005; Phong cách dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh của TS. Thanh Tuyền, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Cán bộ dân vận thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ, của TS.
Trịnh Xuân Giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tác phẩm dân vận của Chủ tịch
Hồ Chí Minh mãi mãi toả sáng, soi đường cho công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ
mới của TS. Nguyễn Văn Hùng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Tư tưởng dân
vận của Hồ Chí Minh với việc xây dựng kỹ năng, nghiệp vụ công tác dân vận của Lương
Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác dân vận
của hệ thống chính trị của Đinh Hồng Vân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Quyền
hạn và lợi ích của dân trong bài báo dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh của Nguyễn Thị
Cận, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; Quan hệ giữa chính quyền nhà nước và nhân
dân trong sự nghiệp cách mạng của PGS.TS Trần Quang Nhiếp, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2005; Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác vận động nông dân của Lê Hoàng
Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005; GS. Văn Tạo: Học tập tư tưởng dân vận Hồ
Chí Minh, Tạp chí Dân vận, số 5-2000; PGS.TS Nguyễn Tri Thư: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về một số vấn đề trong công tác vận động quần chúng, Tạp chí Dân vận, số 1+2, 2000;
PGS.TS Hoàng Chí Bảo: Hồ Chí Minh với quan điểm thực tiễn và phương pháp khoa học
về dân vận, Tạp chí Dân vận, số 10-2000; TS. Phạm Văn Khánh: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về sức mạnh nhân dân và công tác dân vận, Tạp chí Dân vận, số 10-2003; PGS.PTS Đức
Vượng: Đầu xuân suy ngẫm về dân vận trong sự nghiệp đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, Tạp chí Dân vận, số 1+2, 1999; PGS.TS Bùi Đình Phong: Vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận vào việc thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, Tạp chí Cộng sản, số
9-2003; GS.TS Mạch Quang Thắng: Dân vận - vấn đề luôn luôn mới (qua nghiên cứu tác
phẩm "Dân vận" của Hồ Chí Minh), Tạp chí Lý luận chính trị, 8-2006.
Ngoài ra, rất nhiều bài viết, luận văn, cuốn sách mà nội dung đề cập đến công tác
dân vận cũng đã được công bố, như: Chính quyền và nhiệm vụ dân vận của Nguyễn
Khánh, Tạp chí Cộng sản, số 1-1995; Lại bàn về dân vận của GS. Đặng Nguyên Anh,
Tạp chí Dân vận, số 1-2003; "Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công" của Phạm Thế
Duyệt, Tạp chí Dân vận, số 10-2002; Công tác dân vận là một bộ phận quan trọng của
công tác cách mạng của Phan Diễn, Tạp chí Dân vận, số 11-2000; Cơ quan nhà nước làm
công tác dân vận như thế nào của Nguyễn Khánh, Tạp chí Dân vận, số 8-2000; Dân vận -
một nhiệm vụ quan trọng của chính quyền của Nguyễn Khánh, Tạp chí Cộng sản, số 8-
1996; Công tác dân vận của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình thực hiện đường
lối đổi mới (1986 - 1996), Luận văn thạc sĩ Lịch sử của Nguyễn Thị Ngọc Mai, 2002.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu của tập thể và cá nhân nêu trên đã làm
sáng tỏ lý luận và một số nội dung cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận. Song
chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận.
Tuy nhiên, những công trình này là những tài liệu quý báu để tôi tham khảo, kế thừa nhằm
nghiên cứu, trình bày một cách tương đối hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và
vận dụng tư tưởng đó vào việc đánh giá thực trạng công tác dân vận trong những năm đầu
thế kỷ XXI của tỉnh Quảng Bình; trên cơ sở đó xác định phương hướng và giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng công tác nông vận của tỉnh này trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận, trên cơ sở đó đánh giá thực trạng,
nêu ra phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác nông vận
hiện nay ở tỉnh Quảng Bình.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu
sau đây:
- Phân tích cơ sở hình thành và nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về dân
vận.
- Phân tích thực trạng công tác nông vận trong những năm đầu thế kỷ XXI của
tỉnh Quảng Bình, từ đó rút ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm của thực trạng trên.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và đánh giá thực trạng công tác
nông vận, đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác nông vận
trong những năm đầu thế kỷ XXI ở tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và việc quán triệt, vận dụng tư
tưởng đó trong vận động nông dân ở tỉnh Quảng Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu quá trình hình thành và nội dung cơ bản tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân vận; nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng đó trong công tác nông vận
những năm đầu thế kỷ XXI ở tỉnh Quảng Bình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng ta về công tác dân vận.
- Phương pháp luận của luận văn là phương pháp duy vật biện chứng của triết
học Mác - Lênin.
- Về phương pháp cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với
phương pháp lôgíc là chủ yếu, ngoài ra còn sử dụng nhiều phương pháp khác như thống
kê, so sánh...
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn nghiên cứu một cách tương đối toàn diện, hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân vận.
- Trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận, luận văn làm rõ thực
trạng công tác vận động nông dân hiện nay ở tỉnh Quảng Bình, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm về công tác này.
- Luận văn mạnh dạn nêu ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng
công tác nông vận trong giai đoạn hiện nay ở tỉnh Quảng Bình.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ tính cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí
Minh về công tác dân vận. Tính cách mạng và tính khoa học của tư tưởng này không chỉ
có ý nghĩa và giá trị to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, mà
cả trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy công
tác dân vận và làm công tác dân vận, nhất là làm công tác dân vận đối với nông dân.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận văn có 2 chương, 6
tiết.
Chương 1
tư tưởng hồ chí minh về dân vận
1.1. quan niệm về dân, dân chủ, dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh
1.1.1. Quan niệm về dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người suốt đời đấu tranh đưa dân tộc Việt Nam từ dân tộc
nô lệ thành dân tộc tự do, đưa người dân Việt Nam từ thân phận người dân thuộc địa lên
địa vị người làm chủ đất nước; đồng thời Người cũng suốt đời phấn đấu xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Khái niệm "dân" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp thu và phát triển những quan
điểm tiến bộ về dân trong lịch sử tư tưởng dân tộc Việt Nam, lịch sử tư tưởng phương
Đông, phương Tây và khái niệm quần chúng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Hồ Chí Minh đã rút ra một hệ thống các quan niệm về dân. Cho dù xét theo cách
tiếp cận nào thì quan niệm của Hồ Chí Minh về dân Việt Nam có thể khái quát trên các
nội dung sau:
Dân là những người chung một nước, chung một cộng đồng, chung một lãnh thổ
thống nhất, là đồng bào, là "con Rồng cháu Tiên", là "con Hồng cháu Lạc", là anh em
ruột thịt, là các tầng lớp, các đoàn thể, là những người cùng giai cấp, là những người yêu
nước, là lực lượng cách mạng…
Hồ Chí Minh mở rộng nội hàm khái niệm “dân” đến tất cả những ai thừa nhận mình
là “Con dân đất Việt”. Người thường nói đến “Con Rồng cháu Tiên”, “đồng bào”, gốc
tích Việt Nam, “Hồng Bàng là tổ tiên ta”, “người chung một nước”, không phân biệt dân
tộc thiểu số với dân tộc đa số, người có tín ngưỡng với người không có tín ngưỡng,
không phân biệt “già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, quý, tiện”. Dân là toàn bộ đồng bào trong
đại gia đình các dân tộc Việt Nam, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài.
Dân là “toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu,
nghèo, giai cấp, tôn giáo” [26, tr.8].
Dân ở đây trừ bọn phản bội, làm tay sai cho đế quốc thực dân đi ngược lại quyền
lợi, nguyện vọng của toàn dân, dân tộc. Nói đến dân cũng là nói đến tuyệt đại đa số nhân
dân là công nhân, nông dân, trí thức và những người lao động khác. Với quan niệm đó,
Người cho rằng giai cấp tư sản dân tộc - những người có lòng yêu nước, cũng là dân; họ
cũng có đóng góp nhất định trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh
phân tích một cách sâu sắc và khoa học lực lượng quần chúng ở nước ta và chỉ rõ: “Nhân
dân là: bốn giai cấp công, nông, tiểu tư sản, và tư sản dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của giai cấp
công nhân và của Đảng, các giai cấp ấy đoàn kết lại, bầu ra chính phủ của mình” [49, tr.214].
Quan niệm về dân như vậy đã tạo ra một sự thuyết phục mạnh mẽ để tập hợp các lực lượng
tiến bộ xã hội thành một mặt trận rộng rãi, làm nên thắng lợi của cách mạng.
1.1.2. Quan niệm về dân chủ
Từ quan niệm về dân, Hồ Chí Minh đi đến quan niệm mới về dân chủ. Bằng
những mệnh đề giản dị, hàm súc, ngắn gọn mà đầy đủ ý nghĩa, Hồ Chí Minh khái quát
bằng cách riêng của mình những giá trị văn hoá dân chủ nhân loại từ cổ đại đến hiện đại
mà lại rất Việt Nam - cụ thể và thiết thực nên ai đọc cũng nhận thức được ngay. Người
viết: “Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ” [49, tr.368]; “Nước ta là nước
dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [48, tr.515]; “Bây giờ chúng ta là dân chủ.
Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ” [50, tr.375]; “ Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là
nước nhà do nhân dân làm chủ ” [49, tr.452]; “Chế độ ta là chế độ dân chủ. Tức là nhân
dân làm chủ” [52, tr.251]. “Nhân dân là người chủ nắm chính quyền, nhân dân bầu ra đại
biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy thế là dân chủ” [49, tr.218-219].
Có thể coi quan niệm trên đây là quan niệm chính thức của Hồ Chí Minh về dân chủ
và đó là quan niệm ngắn gọn nhất, phản ánh đúng thực chất và nội dung quan niệm của
Người về dân chủ.
Cũng có thể thấy quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ còn thể hiện nội dung căn
bản nhất của loài người về khái niệm dân chủ. Người viết:
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [47, tr.698].
Như vậy, trong quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ, vấn đề nhất quán và sáng
tỏ nhất là sự khẳng định ngay chế độ dân chủ của nước ta phải thể hiện “bao nhiêu lợi ích
đều vì dân”, “quyền hành”, “trách nhiệm, lực lượng” là “của dân”, “đều ở nơi dân”. Quan
niệm đó cũng chỉ ra phương thức tổ chức, vận hành của xã hội dân chủ là chế độ đại diện,
uỷ quyền, trong đó chính quyền và đoàn thể “do dân cử ra và do dân tổ chức nên”.
Tóm lại, quan niệm dân chủ ở nước ta được Hồ Chí Minh chỉ ra là: dân là chủ và
dân làm chủ; bản chất của vấn đề dân chủ là quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, địa
vị của dân là cao nhất, dân là chủ thể của mọi quyền lực. Có thể nói toàn bộ tư tưởng chủ
đạo về dân chủ của Hồ Chí Minh nằm trong chữ "Dân".
1.1.3. Quan niệm về dân vận
Dân vận là một hoạt động vận động, giác ngộ quần chúng nhân dân làm cho dân
hiểu, dân biết, dân bàn, dân kiểm tra, dân quyết định trong quá trình thực hiện các nhiệm
vụ cách mạng do Đảng ta lãnh đạo.
Hồ Chí Minh thường dùng thuật ngữ “Công tác quần chúng” và “dân vận” để chỉ
một lĩnh vực công tác của Đảng. Vấn đề dân vận có nhiều khái niệm khác nhau và cho đến
nay vẫn chưa có khái niệm nào xúc tích, dễ hiểu, lại độc đáo như khái niệm mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh viết trong bài “Dân vận”.
Người viết:
Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót
một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công
việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho.
Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu,
truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ
ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho
kỳ được.
Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và
kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh
địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành.
Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân.
Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh
nghiệm, phê bình, khen thưởng [47, tr.698-699].
Như vậy, công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải có đường lối, chủ
trương, chính sách đúng đắn, kịp thời; phải làm cho người dân hiểu rõ chủ trương, chính
sách và việc thực hiện chủ trương, chính sách sẽ đưa lại lợi ích cho nhân dân và do nhân
dân thực hiện, không ai làm thay dân được; phải sâu sát nhân dân, sâu sát cơ sở, bàn bạc
với dân, với cơ sở về kế hoạch thực hiện chủ trương, chính sách cho phù hợp với hoàn
cảnh của từng địa phương, từng cơ sở, phù hợp với khả năng của nhân dân và phải hướng
dẫn nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách; trong và sau khi thực hiện cần phải theo
dõi, đôn đốc kiểm tra, rút kinh nghiệm để kịp thời bổ sung, uốn nắn những thiếu sót, lệch
lạc, sai lầm trong chủ trương, chính sách, trong tổ chức thực hiện, đồng thời để khen
thưởng và phê bình.
1.2. Cơ sở và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
1.2.1. Cơ sở hình thành
Cơ sở lí luận:
Tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng dân vận, hình thành và phát triển có
nguồn gốc từ nhiều yếu tố, trên cơ sở kế thừa và phát triển biện chứng chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hoá nhân loại, đặc biệt là chủ
nghĩa Mác - Lênin.
1.2.1.1. Tư tưởng và văn hoá truyền thông Việt Nam trong đó chủ nghĩa yêu nước
giữ vị trí hàng đầu
Tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát huy tinh thần “trọng
dân”, “yêu dân”, “dựa vào dân” của ông cha ta trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước.
Bản “Tuyên ngôn Độc lập” của Lý Thường Kiệt có tác dụng “Dân vận” to lớn trong
đấu tranh giữ nước và dựng nước. Bản Tuyên ngôn đã động viên toàn dân chống quân
Tống xâm lược. Từ phòng tuyến Như Nguyệt đã vọng lên lời thơ “Thần diệu” thôi thúc
lòng người đứng lên giữ nước:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư" [3, tr.65].
Tổng kết các bài học lớn của cuộc kháng chiến chống quân Nguyên- Mông, Trần
Quốc Tuấn nhận thấy rằng nguyên nhân lớn nhất của chiến thắng là “Vua tôi đồng tâm,
anh em hoà thuận, cả nước góp sức”, và ông căn dặn: "Phải khoan thử sức dân để làm kế
bền gốc sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước”. Những lời tâm huyết đó đã thúc giục lòng
người đứng lên giết giặc lập công.
Lê Lợi, Nguyễn Trãi bằng chiến lược đánh vào lòng người đã động viên toàn quân,
toàn dân trên tư tưởng "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân", "chở thuyền cũng là dân, lật
thuyền cũng là dân".
Tổng kết chiến thắng quân Minh, Nguyễn Trãi nhấn mạnh nguyên nhân thắng lợi là
gắn bó với nhân dân, và vận động, giáo dục, phát huy sức mạnh của nhân dân:
"Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phất phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào" [3, tr.78].
Như vậy, để tập hợp lực lượng, các chính quyền phong kiến đã biết phát huy tinh
thần yêu nước của các tầng l