Vấn đề con người, xây dựng và phát triển con người là vấn đề muôn thủa, một đề tài
tưởng chừng đã cũ nhưng luôn luôn mới. Bởi lẽ thế giới xung quanh con người và bản
thân con người luôn vận động, biến đổi. Xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con
người ngày càng sâu rộng thì những vấn đề về con người đặt ra cũng ngày càng phức tạp,
đa dạng hơn. Con người và phát triển con người đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học. Đúng như C.Mác đã dự báo, trong tương lai mọi khoa học đều
gặp nhau ở một khoa học cao nhất, đó là khoa học về con người. Trong giai đoạn hiện
nay, vấn đề xây dựng và phát triển con người đang là một vấn đề thực tiễn sống động,
ảnh hưởng đến các nền tảng phát triển của nhân loại.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn tột bậc là đất nước được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc ai
cũng được học hành. Thực chất là mong muốn giải phóng triệt để con người Việt Nam,
để có những con người phát triển toàn diện. Giải phóng con người, xây dựng con người
mới phát triển toàn diện đủ năng lực làm chủ bản thân và xã hội là một trong những nội
dung quan trọng, là vấn đề chi phối mọi tư duy và hành động của Hồ Chí Minh từ lúc ra
đi tìm đường cứu nước cho đến lúc về nơi vĩnh hằng. Đó là ước mơ, khát vọng cháy
bỏng, đồng thời là sự nghiệp cao cả và vĩ đại nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nó chứa
đựng những giá trị nhân văn sâu sắc.
93 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 4665 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể, mỹ của con người Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể,
mỹ của con người Việt Nam
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề con người, xây dựng và phát triển con người là vấn đề muôn thủa, một đề tài
tưởng chừng đã cũ nhưng luôn luôn mới. Bởi lẽ thế giới xung quanh con người và bản
thân con người luôn vận động, biến đổi. Xã hội ngày càng phát triển, nhận thức của con
người ngày càng sâu rộng thì những vấn đề về con người đặt ra cũng ngày càng phức tạp,
đa dạng hơn. Con người và phát triển con người đã trở thành đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học. Đúng như C.Mác đã dự báo, trong tương lai mọi khoa học đều
gặp nhau ở một khoa học cao nhất, đó là khoa học về con người. Trong giai đoạn hiện
nay, vấn đề xây dựng và phát triển con người đang là một vấn đề thực tiễn sống động,
ảnh hưởng đến các nền tảng phát triển của nhân loại.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn tột bậc là đất nước được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc ai
cũng được học hành. Thực chất là mong muốn giải phóng triệt để con người Việt Nam,
để có những con người phát triển toàn diện. Giải phóng con người, xây dựng con người
mới phát triển toàn diện đủ năng lực làm chủ bản thân và xã hội là một trong những nội
dung quan trọng, là vấn đề chi phối mọi tư duy và hành động của Hồ Chí Minh từ lúc ra
đi tìm đường cứu nước cho đến lúc về nơi vĩnh hằng. Đó là ước mơ, khát vọng cháy
bỏng, đồng thời là sự nghiệp cao cả và vĩ đại nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nó chứa
đựng những giá trị nhân văn sâu sắc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trên các
mặt đạo đức, trí lực, thể lực, mỹ thuật (gọi tắt là đức, trí, thể, mỹ) đã góp phần to lớn vào việc
đào tạo cho cách mạng Việt Nam những con người ưu tú, đủ sức đưa Việt Nam vượt qua
muôn vàn khó khăn, thử thách, liên tục giành những thắng lợi to lớn, làm thay đổi sâu sắc địa
vị nước ta từ nước thuộc địa, nô lệ trở thành một nước độc lập và ngày càng có vị thế trên
trường quốc tế.
Phát triển con người một cách toàn diện luôn là mục tiêu xuyên suốt mọi chính sách
của Đảng, Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, là tư tưởng nhân
văn quan trọng trong quản lý xã hội đương đại và là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ
Chí Minh về phát triển con người. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã xác
định: “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ,
đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, lòng khoan dung,
tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong gia đình, cộng đồng và xã
hội” [15, tr.114]. Đây là đường lối đúng đắn và quan trọng, song trong thực tế, ngay đội
ngũ những người tiên phong - cán bộ đảng viên, một bộ phận không nhỏ vẫn chưa đáp
ứng được những mong muốn đó. Vì sao như vậy? rất cần câu trả lời có căn cứ khoa học.
Bước vào thế kỷ XXI, khi đất nước từng bước tiến sâu vào quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, chủ động mở cửa và hội nhập với khu vực và quốc tế thì hàng loạt
thách thức đã nảy sinh xung quanh việc xử lý vấn đề vì con người, cho con người,
phát huy nhân tố con người. Nói cách khác hầu như các vướng mắc trên con đường
phát triển, đều có nguyên nhân thuộc về vấn đề con người Việt Nam chưa được phát
triển toàn diện - sản phẩm tất nhiên và đặc thù của lịch sử Việt Nam. Vì vậy, nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể, mỹ của con người Việt Nam là hết sức
cần thiết để tìm ra những định hướng, nguyên tắc phương pháp luận đúng đắn cho sự
nghiệp xây dựng con người Việt Nam làm chủ đất nước, đủ tài, đức, sức khoẻ, đưa
đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Làm rõ được vấn đề này thực sự là một đòi hỏi bức
thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Song, đây là vấn đề rất lớn, luận văn này
chỉ mong góp phần nhỏ bé làm rõ về mặt lý luận một vài khía cạnh như khái niệm,
cơ sở hình thành, điều kiện và nội dung xây dựng con người phát triển toàn diện
đức, trí, thể, mỹ trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn vấn đề “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí,
thể, mỹ của con người Việt Nam " làm đề tài luận văn thạc sỹ chuyên ngành Hồ Chí
Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nhiều nhà khoa học
nghiên cứu và đã có nhiều công trình khoa học có giá trị được công bố.
- Về các đề tài khoa học:
+ Chương trình khoa học cấp Nhà nước KX02 (1991- 1995) có đề tài KX02. 05:
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và chính sách xã hội đối với con người” do
PGS. TS Lê Sỹ Thắng làm chủ nhiệm. Đề tài đã nghiên cứu làm rõ những nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người, chính sách xã hội của Đảng, Nhà
nước đối với con người.
+ Chương trình khoa học cấp Nhà nước KHXH. 04 (1996-2000) có đề tài Tư tưởng
Hồ Chí Minh về văn hoá và xây dựng con người mới do Giáo sư Đặng Xuân Kỳ làm chủ
nhiệm. Đề tài làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá và
xây dựng con người Việt Nam mới, mối quan hệ giữa phát triển văn hoá và xây dựng con
người mới
- Về các luận văn, luận án:
+ Nguyễn Hữu Công (2001) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn
diện”, luận án tiến sỹ triết học, học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả tập
trung nêu lên tư tưởng về giáo dục, đào tạo phát triển con người toàn diện của Hồ Chí
Minh. Về con đường hình thành và phát triển con người toàn diện theo quan niệm của Hồ Chí
Minh. Từ đó tác giả đưa ra hướng vận dụng và phát huy tư tưởng phát triển con người toàn
diện của Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay.
+ Phùng Thu Hiền (2002) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố con người với việc
phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay”, luận văn thạc sỹ
triết học, Học Viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã nêu khái niệm con người,
nhân tố con người, chỉ ra cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tố
con người, những quan điểm của Đảng và Nhà nước ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
và chỉ ra một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay.
+ Nguyễn Văn Tuyên (2006) “Hồ Chí Minh với sự nghiệp giải phóng con người Việt
Nam", luận văn thạc sỹ Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn
nêu quan điểm của Hồ Chí Minh về con người Việt Nam được giải phóng và sự nghiệp giải
phóng con người Việt Nam, từ đó luận văn chỉ ra sự vận dụng của Đảng ta về tư tưởng giải
phóng con người trong công cuộc đổi mới đất nước và chỉ ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh
sự nghiệp giải phóng con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Về sách chuyên khảo
+ Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, H.1995 của tập thể tác giả: Nguyễn Huy Hoan, Nguyễn Xuân Thông, Nguyễn Thị
Minh Hương, Phạm Thị Lai, Nguyễn Thanh Nga. Tập thể tác giả đã sưu tầm, tuyển chọn
đoạn trích trong Hồ Chí Minh toàn tập do Nhà xuất bản Sự thật xuất bản lần thứ nhất từ
1980 đến 1989 và một số tác phẩm lẻ của Người, một số tư liệu do Viện bảo tàng Hồ Chí
Minh cung cấp. Nội dung “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới” được xắp
sếp theo 6 vần đề sau: Vai trò của con người và ý nghĩa việc xây dựng con người mới; đánh
giá con người; bồi dưỡng con người về trí tuệ; bồi dưỡng đạo đức; xây dựng mục đích và lối
sống; chăm lo lợi ích và đời sống vật chất của con người.
+ PGS. TS Thành Duy (2001): “Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng
con người Việt Nam phát triển toàn diện", Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trong đó
tác giả đã chỉ ra mối quan hệ giữa văn hoá và việc xây dựng con người mới ở Việt Nam, đồng
thời chỉ rõ quan điểm của Hồ Chí Minh về bản chất con người Việt Nam phát triển toàn diện
trong bối cảnh hiện nay.
+ TS Lê Quang Hoan (2002) “Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người” Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đề cập một số nội dung sau: làm sâu sắc thêm khái
niệm con người, nhân tố con người, phát huy nhân tố con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trình bày rõ thêm nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người. Tập trung phân tích những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người, chỉ ra đặc điểm, nội dung chủ yếu, bản sắc, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đánh giá thực trạng phát huy nhân tố con
người trong thời gian qua theo yêu cầu CNH, HĐH, kiến nghị phương hướng và một số giải
pháp cơ bản nhằm phát huy nhân tố con người trong quá trình CNH, HĐH ở Việt nam hiện
nay dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Về các bài tạp chí:
+ Tạp chí nghiên cứu lý luận (số 1/2000) đăng bài của PGS Trần Thành - Lê
Quang Hoan “Hồ Chí Minh với vấn đề nhân tố con người trong sự nghiệp CNH, HĐH”.
Các tác giả đã khái quát một số nội dung có ý nghĩa phương pháp luận của Hồ Chí Minh
về vấn đề con người như giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng XHCN, đạo đức cách
mạng .
+ Tạp chí Lịch sử Đảng (số 12/2005) đăng bài của PGS, TS Thành Duy “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và chính sách đối với con người”. PGS, TS Thành Duy đã
khái quát lại tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người: Bản chất con người, những
phẩm chất cơ bản của con người và một số chính sách đối với vấn đề con người.
+ Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông (Học viện Báo chí và tuyên truyền, Số
5/2007) có bài của Lê Thị Hương “Về một số phẩm chất cơ bản cần có và định hướng
phát huy nhân tố con người theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Bài viết chỉ ra một số phẩm
chất của con người trong quan điểm Hồ Chí Minh: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư, tinh thần lao động quên mình, có lối sống lành mạnh văn minh và chỉ ra một số định
hướng cơ bản về phát huy tiềm năng và sáng tạo của con người theo tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Những công trình trên đã nêu lên và khái quát được những nét lớn, chủ yếu trong
tư tưởng Hồ Chí Minh về con người, về giáo dục, đào tạo con người mới xã hội chủ
nghĩa. Một số tác phẩm bắt đầu đi vào khai thác, nghiên cứu những khía cạnh cụ thể của
tư tưởng đó.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể, mỹ của con
người Việt Nam còn nhiều mặt, nhiều nội dung chưa được đề cập đầy đủ, nhất là
những cống hiến của Hồ Chí Minh trong việc tạo môi trường và điều kiện cho con
người Việt Nam phát triển toàn diện để có những thế hệ người Việt Nam đủ đức, trí,
thể, mỹ; vừa “hồng” vừa “chuyên” đủ khả năng đưa Việt Nam sánh vai các cường
quốc năm châu như Hồ Chí Minh mong đợi. Vì thế đề tài tác giả chọn không trùng lặp
với các đề tài của những người đi trước. Song kết quả nghiên cứu của những người đi
trước sẽ làm cơ sở để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu góp phần hoàn thiện và làm phong
phú hơn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức, trí, thể, mỹ của con người Việt Nam”.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu một cách cơ bản, hệ thống những cống hiến lý luận và thực tiễn của
Hồ Chí Minh trong xây dựng con người Việt Nam trên các mặt đức, trí, thể, mỹ và việc
Đảng Cộng sản Việt Nam kế tục sự nghiệp đó của Hồ Chí Minh trong công cuộc công
nghiệp hoá đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày và làm rõ về mặt lý luận một cách cơ bản, hệ thống những vấn đề như:
khái niệm, cơ sở hình thành và nội dung đức, trí, thể, mỹ trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người Việt Nam phát triển toàn diện và những cống hiến của Hồ Chí Minh trong thực
tế xây dựng con người Việt Nam phát triển về đức, trí, thể, mỹ.
- Trình bày và phân tích định hướng phát triển con người toàn diện của Đảng cộng
sản Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá nhằm kế tục tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới giáo dục đào tạo con người trong
những năm tiến hành công nghiệp hoá.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống các quan điểm của Hồ Chí Minh về đức, trí, thể, mỹ của con người Việt
Nam được thể hiện trong những bài nói và viết của Người, các văn kiện của Đảng cộng
sản Việt Nam; hoạt động thực tế của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong
lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa (thực chất là con người phát
triển toàn diện).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về con người Việt Nam phát triển trên các mặt như: đức, trí, thể, mỹ.
- Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện trong công cuộc đổi mới.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về vấn
đề xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học của Chủ nghĩa
Mác – Lênin: Lịch sử – lôgíc; phương pháp diễn dịch; phương pháp phân tích – tổng hợp,
so sánh; phương pháp khái quát hoá … để làm rõ nội dung cơ bản của đề tài.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn những nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về
con người Việt Nam phát triển trên các mặt chủ yếu cấu thành phẩm chất, năng lực của
nó, đó là: Đức, Trí, Thể, Mỹ; góp phần làm sâu sắc thêm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Với những kết quả đạt được. Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong
việc nghiên cứu và giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh ở trường chính trị, cao đẳng và đại
học.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 5 tiết.
Chương 1
tư tưởng của Hồ Chí Minh về người việt nam
phát triển các mặt đức,trí, thể, mỹ
1.1. Một số khái niệm cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về con người Việt
Nam phát triển đức, trí, thể, mỹ
ở Hồ Chí Minh, tư tưởng về con người, về giải phóng con người và phát triển con
người, coi con người là nhân tố quyết định thành công của cách mạng, luôn quán xuyến
trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Người và dân tộc ta. Luận văn này nghiên cứu
một khía cạnh về phát triển đức, trí, thể, mỹ con người Việt Nam sau khi đã được giải
phóng về chính trị trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó, trong tiết này tập trung làm rõ hai
khái niệm công cụ: con người, con người phát triển toàn diện và bản chất của nó .
1.1.1. Khái niệm con người và bản chất con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Khái niệm con người, bản chất con người trong tư tưởng của Hồ Chí Minh đã được
nhiều người nghiên cứu và có kết quả công bố. Chúng tôi đồng tình với những đánh giá,
kết luận đã công bố trong các công trình của các nhà khoa học đi trước như Đặng Xuân
Kỳ, Thành Duy, Lê Quang Hoan, Nguyễn Văn Tuyên, Nguyễn Hữu Công…. Với tư cách
là một khái niệm công cụ trong nghiên cứu đề tài này, đồng thời để góp thêm ý kiến, làm
sáng tỏ câu trả lời con người là gì, bản chất con người như thế nào trong tư tưởng Hồ Chí
Minh, chúng tôi xin nêu mấy vấn đề sau:
1.1.1.1. Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về người: “Chữ người, nghĩa hẹp là
gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài
người” [40, tr.644].
Lý giải thông thường theo định nghĩa này (duy danh), “chữ người” mà Hồ Chí Minh
đề cập ở đây chủ yếu là con người cộng đồng, tồn tại ở ba khu vực địa lý khác nhau
(làng, nước, thế giới) được hiểu ở ba nghĩa: hẹp, rộng và rất rộng và đây chủ yếu là con
người xã hội, có quan hệ xã hội và mang bản chất xã hội. Con người hình thành là do biết
đối xử với người khác, giải quyết các quan hệ xã hội từ hẹp (gia đình, anh em, họ hàng, bầu
bạn) trong làng đến quan hệ rộng là đồng bào cả nước, rộng nữa là nhân loại cả thế giới.
Điều này cũng có nghĩa con người không thể tách biệt đồng loại, tách biệt xã hội, ngay
quyền tự nhiên tạo hoá ban cho con người làm cha mẹ, anh em, chú bác chỉ có được trong
quan hệ với cộng đồng xã hội, với làng, với nước với nhân loại thế giới.
Song, sự độc đáo của cách hiểu này là ở chỗ: “Chữ người” (có thể hiểu như là chữ
người viết nghiêng), là chỉ cho con người cá thể (một con người), nhưng con người đó
còn là một con người xã hội, là một thành viên của một cộng đồng xã hội nhất định.
Cộng đồng đó, không chỉ là cộng đồng ba cấp nhà - làng - nước đã tồn tại từ lâu trong
quan niệm của nhân dân ta, mà còn cụ thể hơn, rộng hơn với 5 cấp là gia đình, họ tộc, làng
xóm, dân tộc và nhân loại như Hồ Chí Minh nêu trong định nghĩa. Điều này cũng có nghĩa là
để thành người (chữ người) thì điều kiện cần là con người cá thể, con người sinh vật học,
nhưng điều kiện đủ phải là con người xã hội. Nghĩa là nghiên cứu con người, bản chất con
người phải đồng thời chú ý cả hai mặt sinh vật học và xã hội.
Cái độc đáo của định nghĩa này còn hàm chứa tiêu chuẩn con người khi nói đến
nghĩa hẹp, rộng và rộng nữa, tức là nói đến khả năng phát triển của con người, đơn giản
hay phong phú, trình độ cao hay thấp phụ thuộc vào kết quả của quá trình ứng xử, giải
quyết các quan hệ xã hội xuất hiện đơn giản hay phức tạp, gia đình hay quốc gia hoặc
quốc tế. Con người sẽ phát triển hơn khi được giao tiếp rộng hơn, “đi một đàng, học sàng
khôn”.
Cùng dùng với thuật ngữ chữ người, gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn, đồng bào,
nhân loại để chỉ cho “con người”, Hồ Chí Minh còn dùng các thuật ngữ khác như: dân,
dân chúng, quần chúng, sĩ, nông, công, thương, già trẻ, gái, trai, cán bộ, đảng viên…
cũng để nói về “con người”. Mặc dù thuật ngữ “con người” Hồ Chí Minh dùng rất ít (hai
lần), nhưng thông qua các thuật ngữ trên Hồ Chí Minh đề cập đầy đủ các mặt của con
người.
1.1.1.2. Theo Hồ Chí Minh, con người muốn tồn tại thì phải có ăn, mặc, ở, đi lại…
Đó là những nhu cầu tối thiểu của cuộc sống con người. Con người sinh vật học và con
người xã hội (con người trí tuệ) đều có nhu cầu (bản năng) ăn, ở, đi lại.
Song, con người khác con vật ở chỗ, trong con người, ý thức thay thế bản năng, hoặc
bản năng của con người là bản năng đã được ý thức. ở con người cái bản năng đã được
cải tạo, nhưng không hề bị xoá bỏ, nó vẫn tác động tới toàn bộ đời sống của con người.
Quá trình người hoá là quá trình duy nhất diễn ra trong sự tương tác giữa yếu tố sinh vật
và yếu tố xã hội.
Thực ra không có hai loại con người tức con người sinh vật học và con người xã hội
cùng sống trong xã hội loài người mà chỉ có những con người cụ thể được phát triển từ
con người sinh học thành người khôn và trưởng thành, hiện tồn tại là con người trí tuệ, có
ý thức. Có thể thấy điều này qua cách lý giải của Hồ Chí Minh.
Theo Hồ Chí Minh, dù sống ở quốc gia độc lập hay lệ thuộc, đã là dân thì: “Dân dĩ
thực vi thiên, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, không có ăn là không có trời. Lại có câu có
thực mới vực được đạo nghĩa là không có ăn chẳng làm được việc gì” [42, tr.572]. Và:
“Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” [39,
tr.152]. Chính vì vậy, để dân phân biệt được giá trị của tự do, độc lập:
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn,
2. Làm cho dân có mặc,
3. Làm cho dân có chỗ ở,
4. Làm cho dân có học hành.
Đi đến 4 điều đó để dân nước ta xứng đáng với tự do, độc lập và giúp
sức được cho tự do, độc lập [39, tr.152].
Điều này có nghĩa là Hồ Chí Minh quan tâm đến nhu cầu tối thiểu của con người,
dù là con người sinh vật học hay con người xã hội để tồn tại như một con người phải có
ăn, mặc, ở, đi lại. Đó là nhu cầu để được sống, có sống mới nói đến làm đạo lý và các
việc cao xa khác như chính trị, quân sự, chinh phục vũ trụ.
Hồ Chí Minh cũng cho rằng con người không phải chỉ có nhu cầu vật chất, mà còn
có những nhu cầu về tinh thầ