Từkhi nền kinh tếnước ta chuyển sang nền kinh tếthịtrường, đặc biệt là từ
sau khi pháp lệnh vềngân hàng ởnước ta ra đời (1990) thì ngành ngân hàng cũng
có sựchuyển đổi căn bản từhệthống ngân hàng là một cấp sang hệthống ngân
hàng hai cấp. Sựxuất hiện hàng loạt ngân hàng thương mại trong nước và sưxâm
nhập thịtrường của các ngân hàng liên doanh chi nhánh và văn phòng đại diện của
các ngân hàng nước ngoài đã làm cho môi trường kinh doanh ngân hàng nước
ngoài đã làm cho môi trường kinh doanh ngân hàng ởnước ta “nóng” dần lên và
thịphần của các ngân hàng thương mại trong nước ngày càng bịthu hẹp. Đặc biệt
trong thời kỳnày, các định chếngân hàng hoạt động trong sựbiến động không
ngừng của môi trường kinh doanh và cuộc chiến giành giật thịtrường diễn ra ngày
càng khốc liệt. Bên cạnh đó, do sựyếu kém trong kinh doanh, cơchếchính sách
thiếu đồng bộvà còn nhiều bất hợp lý đã gây nên tình trạng thất thoát vốn nghiêm
trọng, nợkhó đòi gia tăng. Điều này đã đẩy các ngân hàng thương mại của nước ta
vào trạng thái né tránh, co cụm trong kinh doanh trong khi đó lượng vốn vay lại bị
ứ đọng nhiều (năm 1999 sốlượng vốn vay bị ứ đọng ởcác ngân hàng tăng 20% so
với năm 1998). Trước những khó khăn đó, đểkhai thông những bếtắc và đưa hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng thoát khỏi tình trạng trì trệ, yếu kém, nâng cao
sức cạnh tranh, các nhà quản trịngân hàng ởnước ta đã nhận thấy vai trò quan
trọng của Marketing nên đã từng bước chuyển hướng kinh doanh theo triết lý
Marketing và đã đạt được những kết quảnhất định. Tuy nhiên do nó còn mới mẽ
đối với các ngân hàng vềcảlý luận lãn thực tiễn nên việc ứng dụng Marketing
trong kinh doanh còn nhiều yếu kém và chưa tương xứng với tiầm quan trọng của
nó. Xuất phát từtình hình đó, đểgóp phần nâng cao hiệu quảcủa việc ứng dụng
Marketing trong hoạt động kinh doanh ởcác ngân hàng thương mại của nước ta
nói chung và tại sởgiao dịch I ngân hàng đầu tưvà phát triển Việt Nam nói riêng,
em đã chọn đềtài “Ứng dụng Marketing vào hoạt động tại sởgiao dịch I ngân
hàng đầu tưvà phát triển Việt Nam ” cho đềán môn học của mình. Mục tiêu của
bài viết là xuất phát từnhững đặc điểm chung vềhoạt động Marketing trong ngành
ngân hàng và thực trạng ứng dụng của nó ởcác ngân hàng thương mại của Việt
Nam nói chung và ởsởgiao dịch I ngân hàng đầu tưvà phát triển Việt Nam nói
riêng đểtìm ra những giải pháp giúp cho các nhà quản trịngân hàng nâng cao hiệu
quảviệc ứng dụng Marketing trong lĩnh vực kinh doanh của mình.
35 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1804 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ứng dụng Marketing vào hoạt động tại sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đồ án tốt nghiệp
Ứng dụng Marketing vào hoạt động
tại sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và
phát triển Việt Nam
Ứng dụng Marketing vào hoạt động tại sở giao
dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
LỜI MỞ ĐẦU
Từ khi nền kinh tế nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là từ
sau khi pháp lệnh về ngân hàng ở nước ta ra đời (1990) thì ngành ngân hàng cũng
có sự chuyển đổi căn bản từ hệ thống ngân hàng là một cấp sang hệ thống ngân
hàng hai cấp. Sự xuất hiện hàng loạt ngân hàng thương mại trong nước và sư xâm
nhập thị trường của các ngân hàng liên doanh chi nhánh và văn phòng đại diện của
các ngân hàng nước ngoài đã làm cho môi trường kinh doanh ngân hàng nước
ngoài đã làm cho môi trường kinh doanh ngân hàng ở nước ta “nóng” dần lên và
thị phần của các ngân hàng thương mại trong nước ngày càng bị thu hẹp. Đặc biệt
trong thời kỳ này, các định chế ngân hàng hoạt động trong sự biến động không
ngừng của môi trường kinh doanh và cuộc chiến giành giật thị trường diễn ra ngày
càng khốc liệt. Bên cạnh đó, do sự yếu kém trong kinh doanh, cơ chế chính sách
thiếu đồng bộ và còn nhiều bất hợp lý đã gây nên tình trạng thất thoát vốn nghiêm
trọng, nợ khó đòi gia tăng. Điều này đã đẩy các ngân hàng thương mại của nước ta
vào trạng thái né tránh, co cụm trong kinh doanh trong khi đó lượng vốn vay lại bị
ứ đọng nhiều (năm 1999 số lượng vốn vay bị ứ đọng ở các ngân hàng tăng 20% so
với năm 1998). Trước những khó khăn đó, để khai thông những bế tắc và đưa hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng thoát khỏi tình trạng trì trệ, yếu kém, nâng cao
sức cạnh tranh, các nhà quản trị ngân hàng ở nước ta đã nhận thấy vai trò quan
trọng của Marketing nên đã từng bước chuyển hướng kinh doanh theo triết lý
Marketing và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên do nó còn mới mẽ
đối với các ngân hàng về cả lý luận lãn thực tiễn nên việc ứng dụng Marketing
trong kinh doanh còn nhiều yếu kém và chưa tương xứng với tiầm quan trọng của
nó. Xuất phát từ tình hình đó, để góp phần nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng
Marketing trong hoạt động kinh doanh ở các ngân hàng thương mại của nước ta
nói chung và tại sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói riêng,
em đã chọn đề tài “Ứng dụng Marketing vào hoạt động tại sở giao dịch I ngân
hàng đầu tư và phát triển Việt Nam ” cho đề án môn học của mình. Mục tiêu của
bài viết là xuất phát từ những đặc điểm chung về hoạt động Marketing trong ngành
ngân hàng và thực trạng ứng dụng của nó ở các ngân hàng thương mại của Việt
Nam nói chung và ở sở giao dịch I ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam nói
riêng để tìm ra những giải pháp giúp cho các nhà quản trị ngân hàng nâng cao hiệu
quả việc ứng dụng Marketing trong lĩnh vực kinh doanh của mình.
Để thực hiện được mục tiêu này em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu mô
tả và chủ yếu là dựa vào những dữ liệu thứ cấp để tìm ra những tồn tại và yếu kém
trong hoạt động Marketing của các ngân hàng ở nước ta, từ đó đưa ra những giải
pháp mang tính chất cá nhân của mình.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Minh Đạo và cô Nguyễn Thu Hà
đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn để em hoàn thành được bài viết này. Với trình độ
còn nhiều hạn chế, lại ít hiểu biết về ngân hàng nên chắc chắn bài viết không tránh
khỏi những yếu kém và thiếu sót. Em mong được sự đóng góp ý kiến nhiệt tình
của các thầy cô giáo để em được tiến bộ hơn trong những bài viết sau này.
Sinh viên thực hiện
Lê Mạnh Cường
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MARKETING
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ MARKETING
1. Khái niệm Marketing
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy luật phổ biến. Người mua
cạnh tranh với nhau, người bán cạnh tranh với nhau, người mua cạnh tranh với
người bán, người mua muốn mua rẻ, người bán muốn bán đắt. Quan hệ cạnh tranh
ngày càng gay gắt đã luôn đe doạ các nhà cung cấp với những rủi ro tiềm ẩn. Để
hạn chế rủi ro các nhà sản xuất đã đưa ra các giải pháp để thu hút khách hàng, để
tồn tại trong nền kinh tế và thu được lợi nhuận tối ưu. Vì khách hàng mới là người
quyết định đến sự thành công hay thất bại của mõi doanh nghiệp, do vậy để nhận
biết và dáp ứng nhu cầu, mong muốn của khách hàng là yếu tố cực kỳ quan trọng,
và marketing ra đời để thực hiện nhiệm vụ đó. Lịch sử hình thành và phát triển đã
chứng tỏ marketing là sản phẩm của kinh tế thị trường. Trải qua hơn một thế kỷ
phát triển và không ngừng hoàn thiện, Marketing đã không còn là những biện pháp
đơn giản, mà nó đã trở thành một môn khoa học có đầy đủ cơ sở lý luận.
Marketing có khả năng giải quyết những vấn đề to lớn nhằm hạn chế tối đa những
rủi ro nảy sinh trong nền kinh tế thị trường để đạt được lợi nhuận tối ưu. Marketing
không coi lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu và duy nhất, mà cho rằng lợi nhuận là
mục tiêu cuối cùng, điều đó có được là do đáp ứng được nhu cầu và mong muốn
của khách hàng.Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau khi đưa ra
một khái niệm marketing là gì.
Philip Lotter- Mỹ: “Marketing là sự phân tích, tổ chức kế hoạch hoá và kiểm
tra những khả năng thu hút khách hàng của một công ty, cũng như chính sách và
hoạt động với quan điểm thoả mãn nhu cầu mong muốn của nhóm khách hàng đã
lựa chọn”1. Theo hiệp hội Marketing Anh: “Marketing là chức năng quản lý công
ty về mặt tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt dộng kinh doanh từ việc phát hiện và
biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự của một mặt hàng, đến
việc đưa hàng hoá đó đến người tiêu thụ cuối cùng, nhằm đảm bảo cho công ty lợi
nhuận như dự kiến”2
Tựu chung lại: “ Marketing là làm việc với thị trường để thực hiện các cuộc
trao đổi với mục đích thoả mãn nhưng nhu cầu và mong muốn của con người"
2. Các công cụ của Marketing
2.1 Sản phẩm
Sản phẩm là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của hệ thống Marketing mix.
Theo quan điểm của marketing, sản phẩm về vật chất là tất cả các lợi ích mà các
công ty định chào bán cho khách hàng và họ cảm nhận được.. Sản phẩm ra đời
trước hết dựa trên những nhu cầu và mong muốn của khách hàng và phục vụ
những nhu cầu và mong muốn đó. Trong môi trương cạnh tranh gay gắt như hiện
nay thì mỗi sản phẩm ra đơi đều phải chịu sức ép từ sản phẩm của các đối thủ cạnh
tranh cũng như từ các sản phẩm thay thế. Do vậy muốn tồn tại và phát triẻn được
thì sản phẩm phải đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Mỗi đơn vị hàng hoá
được cấu thành bởi nhiều yếu tố, các yếu tố này được sắp xếp thành 3 cấp độ cơ
bản là: hàng hoá theo ý tưởng, hang hoá thực hiện và hàng hoá bổ xung. Mỗi cấp
độ có vai trò riêng nhưng cả 3 cấp độ mới tạo thành hàng hoá hoàn chỉnh. Liên
quan đến hàng hoá còn có các vấn đề mà các công ty quan tâm đó là: nhãn hiệu,
bao gói và dịch vụ, chủng loại và danh mục hàng hoá và chu kỳ sống của sản
phẩm. Để hình thành các vấn đề trên thì vai trò của marketing là rất quan trọng.
2.2 Giá cả:
Giá cả được hiểu là mối tương quan trao đổi trên thị trường. Đây là công cụ
rất quan trọng của marketing vì trên phương diên của các nhà sản xuất thì nó là
biến số duy nhất của marketing mix tạo doanh thu cho doanh nghiệp và ảnh hưởng
trực tiếp tới hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự hình thành và vận động
của giá cả sản phẩm chịu sự tác động của nhiều nhân tố, bao gồm bên trong và bên
ngoài của doanh nghiệp. Do vậy để có một mức giá phù hợp đòi hỏi phải xem xét
và giải quyết chi phí, sự biến động về giá chung, về mối quan hệ giữa giá và cầu,
mức giá của đối thủ cạnh tranh… Do các doanh thường sản xuất và kinh doanh
nhiều mặt hàng khác nhau, giao dịch với nhiều loại khách hàng, bán ở nhiều loại
thị trường vào những thời điểm khác nhau. Để có thể thu hút khách hàng qua giá,
tăng loại nhuận thì doanh nghiệp phải có những quyết định giá một cách linh hoạt
phù hợp với từng tình huống cụ thể, liên quan đến các chính sách như: chính sách
giá cho sản phẩm mới, chính sách giá cho danh mục sản phẩm, các chính sách điều
chỉnh giá( giá hai phần, giá phân biệt, giá trọn gói, giá theo khu vực địa lý…). Do
luôn phải đối phó với hiện tượng cạnh tranh qua giá trong hoạt động kinh doanh,
các doanh nghiệp buộc phải tìm kiếm những nguyên tắc liên quan đến ứng xử giá.
Các nguyên tắc này sẽ giúp cho việc đề xuất quyết định liên quan đến giá của
doanh nghiệp có hiẹu quả hơn.
2.3. Phân phối
Đây là công cụ quan trọng nhằm đưa hàng hoá và dịch vụ của các doanh nghiệp
sản xuất và kinh doanh tới tay người tiêu dùng. Phân phối hàng hoá vật chất là một
dòng chảy chủ yếu trong kênh và chi phí phân phối vật chất chiếm tỉ trọng lớn nhất
trong tổng chi phí phân phối. Doanh nghiệp phải làm các quyết định về mục tiêu
phân phối vật chất, xử lý đơn đặt hàng… để đảm bảo đạt hiệu quả phân phối cao
nhất. Tuỳ vào đặc điểm thị trường, đạc điểm các trung gian thương mại, khả năng
và nguồn lực của mỗi doanh nghiệp mà lựa chọn những kênh phân phối phù hợp.
Liên quan đến việc lựa chọn kênh, cơ cấu của kênh, các quyết định phân phối và
marketing của các tổ chức bán buôn, bán lẻ.
2.4 Xúc tiến hỗn hợp
Các quyết định về xúc tiến hỗn hợp là nhóm công cụ Marketing mang tính bề nổi
có chức năng truyền tin về sản phẩm và doanh nghiệp tới khách hàng mục tiêu, tạo
lòng tin va thúc đẩy họ mua. Nó gồm 5 nhóm công cụ chủ yếu là: quảng cáo,
khuyến mại, tuyên truyền, bán hàng cá nhân và marketing trực tiếp.
Quảng cáo là việc người bán sử dụng các phương tiện truyền thông có trả
tiền để truyền đi thông tin thuyết phục về sản phẩm, dịch vụ hay doanh nghiệp tới
khách hàng. Quảng cao có nhiều hình thức và được thiết kế nhằm đạt được những
mục tiêu khác nhau liên quan đến 5 bước gồm: xác định mục tiêu, quyết định ngân
sách, quyết định thông điệp, quyết định thông tin truyền thông và đánh giá hiệu
quả của quảng cáo.
Khuyến mại là những công cụ nhằm khuyến khích dùng thử và tăng
lượng bán ngay lập tức nhờ cung cấp cho khách hàng nhưng lợi ích bổ xung. Liên
quan đén việc xác định khách hàng mục tiêu và đặc điểm của họ, lựa chọn hình
thức khuyến mại…Công cụ chủ yếu la: hàng mẫu, qua tặng, qiảm giá…
Tuyên truyền là công cụ truyền thông quan trọng có tác dụng lớn để tạo
nên mức độ nhận biết . Công cụ chủ yếu là các ấn phẩm, tin tức…
Bán hàng cá nhân là công cụ quan trọng để tác động trực tiếp tới khách
hàng tạo nên hành động mua và phản hồi ngay lập tức. Công việc này đòi hỏi phải
có ỹ năng và nghệ thuật bán
Marketing trực tiếp là một hệ thống tương tác của marketing sử dụng
một hay nhiều phương tiện truyền thông quảng cáo để tạo ra hành động mua của
khách hàng ở bất kỳ địa điểm nào.
II.SỰ CẦN THIẾT ỨNG DỤNG MARKTING TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
1.Khái niệm và đặc điểm của dịch vụ ngân hàng
1.1 Khái niệm
“Ngân đối với hầu hết chúng ta không phải là một từ ngữ xa lạ. Nó đã quen thuộc
đối với mọi cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế. Ngân hàng là một loại hình kinh
doanh trong nền kinh tế, song nó có vai trò vô cùng quan trọng đối với chính nền
kinh tế. Có người coi ngân hàng cùng với tiền tệ là một trong những phát minh vĩ
đại của loài người, bên cạnh các phát minh ra lửa và bánh xe. Thông qua hoạt động
nhận gửi, cho vay, và đầu tư các ngân hàng có khả năng “tạo tiền”. Sự thay đổi
trong khối lượng tiền tệ do ngân hàng tạo ra liên quan chặt chẽ tới tình hình kinh
tế, đặc biệt là mức tăng trưởng của việc làm, tình trạng lạm phát, từ đó mà ảnh
hưởng tới các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Đây là một trong những lý do khiến hoạt
động của ngân hàng luôn được đặt dưới một hệ thống các quy định chặt chẽ của
Nhà nước nhằm tăng cường hoạt động quản lý, kiểm tra, kiểm soát hoạt động ngân
hàng, đồng thời hướng dẫn hoạt động ngân hàng theo hướng có lợi cho nền kinh tế.
Chính vì có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nên việc định nghĩa ngân hàng là
cần thiết. Điều này nhằm xác định cụ thể những đối tượng sẽ chịu sự quản lý của
Nhà nước về ngân hàng, đồng thời cũng nhằm bảo vệ chính ngân hàng và thực tế
là ở hầu hết các quốc gia đều có các luật về ngân hàng. Các ngân hàng có thể được
định nghĩa qua chức năng, dịch vụ mà chúng cung cấp trong nền kinh tế. Theo đó
“Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính
đa dạng nhất -đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh
tế”3.
1.2 Đặc điểm của dịch vụ ngân hàng
Các hoạt động của ngân hàng đã chiếm được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu cũng như các nhà lập pháp bởi những hoạt động đó không chỉ có ý
nghĩa đối với bản thân ngân hàng mà còn có ý nghĩa đối với nền kinh tế. Cùng với
sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thì các sản phẩm dịch vụ do ngân hàng cung
cấp ngày càng đa dạng, phong phú và mở rộng về phạm vi cung cấp dịch vụ: bất
động sản, môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm… Tuy nhiên vẫn có
những sản phẩm dịch vụ mà quá trình phát triển của nó gắn liền với quá trình hình
thành và phát triển của ngân hàng, nếu thiếu các sản phẩm đó thì không thể gọi là
ngân hàng.
Mua bán ngoại tệ: Khi thực hiện việc mua bán ngoại tệ ngân hàng sẽ nhận
được một khoản phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính phát triển, hoạt động này
đã phát triển với các giao dịch phức tạp hơn: swap, giao ngay, tương lai, quyền
chọn, kỳ hạn…và với khối lượng lớn vì thế hoạt động này thường chỉ do các ngân
hàng lớn thực hiện bởi những giao dịch này có độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu
phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn cao. Các ngân hàng nhỏ chỉ thực hiện các
giao dịch nhỏ cho cá nhân.
Nhận tiền gửi và thanh toán hộ: Nhận tiền gửi được coi là một trong những
hoạt động quan trọng của ngân hàng, hoạt động khác biệt giữa ngân hàng và các tổ
chức tài chính khác. Đồng thời nó là nguồn cung cấp “nguyên liệu đầu vào” chính
cho ngân hàng. Các ngân hàng nhận tiền gửi từ các cá nhân, tổ chức kinh tế, xã
hội. Tuỳ theo tiêu thức phân loại và yêu cầu quản lý mà tiền gửi có thể được phân
theo các loại khác nhau.
Theo nguồn hình thành: Tiền ký gửi, tiền gửi được tạo ra từ hoạt động
cho vay của ngân hàng.
Theo thời hạn: tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ hạn
*
Theo mục đích sử dụng: Tiền gửi giao dịch(tiền gửi thanh toán), Tiền gửi
tiết kiệm (tiền gửi phi giao dịch).
Cho vay: Cho vay là hoạt động sinh lời chủ yếu của ngân hàng, nó là việc
ngân hàng chuyển trực tiếp tiền cho khách hàng sử dụng trong một thời gian nhất
định. Tuỳ thuộc vào tiêu thức phân loại và yêu cầu quản lý, cho vay có thể chia
thành nhiều loại khác nhau.
Theo mục đích sử dụng tiền vay của người vay: Cho vay tiêu dùng, Cho
vay thực hiện hoạt động kinh doanh.
Theo thời hạn: cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn.
Bảo lãnh: là nghiệp vụ của ngân hàng theo đó ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa
vụ tài chính thay cho khách hàng của mình khi khách hàng không thực hiện được
nghĩa vụ đã cam kết của họ đối với đối tác.
Thuê mua tài chính: là nghiệp vụ của ngân hàng theo đó ngân hàng đảm nhận
việc thanh toán tiền mua thiết bị và giữ quyền sở hữu thiết bị.
Những nghiệp vụ trên là những nghiệp vụ cơ bản của các ngân hàng bên cạnh
các ngân hàng đó các ngân hàng còn có các nghiệp vụ khác: dịch vụ uỷ thác đầu
tư, dịch vụ bảo hiểm, dịch tư vấn tài chính, môi giới chứng khoán, cho thuê két,
bảo quản vật có giá…
2. MARKETING VỚI HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
.2.1. Khái niệm Marketing ngân hàng
Ngày nay tình hình cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt trong mọi lĩnh vực của
nền kinh tế , do vậy nó mang lại cho mỗi doanh nghiệp rất nhiều cơ hội nhưng
cũng không ít những thách thức, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tự thích nghi và có
những hướng đi đúng đắn. Ngân hàng là một nganh dịch vụ đặc biệt có rủi ro lớn:
nguyên liệu chính và không thể thay thế của ngân hàng là tiền, phần lớn lại không
phải thuộc sở hữu của ngân hàng. Như trên chúng ta đã nghiên cứu thì ngân hàng
là tổ chức có hoạt động chính là “nhận tiền gửi” để “cho vay”. Số vốn mà ngân
hàng được phép huy động có thể gấp tới 20 lần số vốn tự có của ngân hàng. Thực
tế sẽ là: toàn bộ số tiền mà ngân hàng sử dụng để cho vay không phải là tiền của
ngân hàng. Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả không điều kiện đối với khách hàng
gửi khi họ muốn rút tiền, trong khi đó ngân hàng không có quyền đó với khách
hàng vay của mình và ngay cả khi đến hạn thì khách hàng vay chưa chắc đã trả
đúng hạn. Điều đó có nghĩa là: trong hoạt động của ngân hàng không thể không có
rủi ro, đó là điều tất yếu. Khi ngân hàng gặp rủi ro thì không chỉ ảnh hưởng đến
ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế. Chính vì thế marketing được áp
dụng vào hoạt động của ngân hàng để hạn chế rủi ro.
Bên cạnh đó, ngân hàng hoạt động trong hành lang hẹp về pháp lý của Nhà
nước nhưng vẫn chịu sự cạnh tranh gay gắt của thị trường. Ngân hàng không chỉ
cạnh tranh với ngân hàng mà còn cạnh tranh với số lượng ngày càng đông các tổ
chức tài chính khác đang xâm nhập vào hoạt động ngân hàng. Do đó muốn tồn tại
ngân hàng phải nâng cao được sức cạnh tranh và hình ảnh của mình trên thị
trường. Mặt khác, sản phẩm của ngân hàng mang tính đơn giản đồng điệu,dễ bị bắt
chước một cách nhanh chóng. Việc đưa ra sản phẩm mới đối với ngân hàng lại
không phải là dễ và điều đó còn phụ thuộc vào điều kiện của nền kinh tế .
Và lý do hơn hết để marketing ứng dụng vào ngân hàng là lợi nhuận. Ngân
hàng là một tổ chức kinh doanh chứ không phải là một tổ chức xã hội do đó lợi
nhuận là mục tiêu sống còn của ngân hàng. Marketing được ứng dụng vào ngân
hàng nhằm thu hút và thoả mãn nhu cầu khách hàng, và hướng tới mục tiêu cuối
cùng đó là lợi nhuận.
Marketing ngân hàng có thể được hiểu đơn giản là marketing được ứng dụng
vào hoạt động của ngân hàng nhằm thoả mãn khách hàng và thu được lợi nhuận tối
ưu.
Tuy nhiên có một số ý kiến khác nhau về marketing ngân hàng như sau:
Marketing ngân hàng là hoạt động tiếp cận thị trường của ngân hàng
thương mại nhằm phát hiện nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ từ đó ngân hàng
thoả mãn tối đa nhu cầu đó nhằm mang lại hiệu quả cao nhất trong hoạt động
kinh doanh.
“Marketing ngân hàng là một hệ thống tổ chức quản lý của một ngân
hàng để đạt được mục tiêu đề ra của ngân hàng là thoả mãn tốt nhất nhu cầu về
vốn, cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng đối với nhóm khách hàng lựa
chọn bằng các chính sách, biện pháp hướng tới các mục tiêu cuối cùng là đối đa
hoá lợi nhuận”4
Và thực tế đã chứng minh các ngân hàng kinh doanh trên cơ sở các hoạt
động đã được chiến lược hóa luôn thành công hơn các ngân hàng kinh doanh theo
kiểu tuỳ tiện đối phó với thị trường. Sự thành công của các ngân hàng không xây
dựng các chiến lược marketing, nếu có, chỉ là sự may mắn mà thôi và mang tính
ngắn hạn.
.2.2. Vai trò của marketing trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
.2..2.1.Marketing tham gia vào việc giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản của
hoạt động kinh doanh ngân hàng
Hoạt động của các ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế và trở
thành bộ phận quan trọng trong cơ chế vận hành nền kinh tế của mỗi quốc gia.
Giống như các doanh nghiệp, các ngân hàng cũng phải lựa chọn và giải quyết
những vấn đề kinh tế cơ bản của hoạt động kinh doanh với sự hỗ trợ đắc lực của
marketing.
Thứ nhất, phải xác định được loại sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cần cung
ứng ra thị trường. Bộ phận marketing sẽ giúp chủ ngân hàng giải quyết tốt vấn đề
này thông qua các hoạt động như tổ chức thu thập thông tin thị trường, nghiên cứu
hành vi tiêu dùng, cách thức sử dụng sản phẩm dịch vụ và lựa chọn ngân hàng của
khách hàng. Đó là căn cứ quan trọng để chủ ngân hàng quyết định loại sản phẩm
dịch vụ cung ứng ra thị trường ở cả hiện tại và tương lai. Đây là những vấn đề kinh
tế quan trọng vì nó quyết định phương thức hoạt động, kết quả hoạt động, khả
năng cạnh tranh cùng vị thế của mỗi ngân hàng trên thị trường.
Thứ hai, tổ chức tốt quá trình cung ứng sản phẩm dịc