Ngày nay công nghệ thông tin đang ngày càng phát triển. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công việc kinh doanh đang rất thịnh hành. Các doanh nghiệp ngày nay đã quá quen thuộc với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của mình từ những công việc đơn giản hay phức tạp. Thế giới công nghệ vẫn đang thay đổi từng ngày và ngày càng đơn giản hóa mọi công việc, tìm ra giải pháp nhanh nhất cho mọi vấn đề. Để có thể theo kịp thời đại thì bản thân chúng ta phải thay đổi chính mình, phải tạo cho bản thân thích ứng với một thế giới mới, phải không ngừng phát triển bản thân.
Lý do chọn đề tài.
Chè là loại cây công nghiệp dài ngày được trồng nhiều ở vùng núi phía Bắc và Thái Nguyên. Sản xuất chè trong nhiều năm qua đã đáp ứng được nhu cầu về chè uống cho nhân dân và xuất khẩu đạt hàng chục triệu USD mỗi năm. Tuy có những thời điểm cây chè giá xuống thấp đời sống nhân dân trồng chè gặp nhiều khó khăn nhưng tổng thể cây chè vẫn giữ được vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và góp phần tạo nên việc làm tăng thu nhập cho người nông dân trung du miền núi, vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ môi môi sinh. Vì vậy để đạt sản lượng chè cao là vấn đề đang được coi trọng thúc đẩy tăng trưởng nền nông nghiệp nói riêng và nên kinh tế của nước ta nói chung.
Xuất phát từ lý trên e chọn đề tài “Ứng dụng phương pháp hồi quy đơn để dự báo về sản lượng chè tại công ty TNHH Tân Cương-Thái Nguyên “. Để dự báo về sản lượng chè mà công ty Tân Cương đã đạt được trong năm qua nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất phát triển ngành chè.
Mục tiêu và nhệm vụ nghiên cứu.
Trên cơ sở từ việc đánh giá phân tích thực trạng sản lượng của ngành chè Tân Cương trong những năm qua để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát triển ngành chè tốt hơn so với các địa phương khác.
35 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 513 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ứng dụng phương pháp hồi quy đơn để dự báo về sản lượng chè tại công ty TNHH Tân Cương - Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC HÌNH ẢNH
HÌNH 2.1. SƠ ĐỒ KINH DOANH VÀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÔNG TY 16
HÌNH 2.2 LƯU ĐỒ THUẬT TOÁN PHƯƠNG PHÁP HỒI QUY TUYẾN TÍNH 20
BẢNG 2.1. BẢNG SỐ LIỆU THỐNG KÊ SẢN LƯỢNG CHÈ TÂN CƯƠNG QUA CÁC NĂM TỪ 2005-2014
( NGUỒN CÔNG TY TÂN CƯƠNG XANH – THÁI NGUYÊN) 24
HÌNH 2.3 ĐIỀU KIỆN CHỌN ĐẦU VÀO CHO DỰ BÁO 24
HÌNH 2.4. PHƯƠNG TRÌNH HỒI QUY TUYẾN TÍNH 25
HÌNH 2.5 BIỂU ĐỒ KẾT QUẢ PHÂN TÍCH DỰ BÁO 25
HÌNH 2.6. BẢNG THÔNG SỐ CỦA MÔ HÌNH HỒI QUY 26
HÌNH 3.1. BẢNG KẾT QUẢ TÓM TẮT 29
HÌNH 3.2. BẢNG PHÂN TÍCH PHƯƠNG SAI 29
HÌNH 3.3. BẢNG PHÂN TÍCH HỒI QUY 29
HÌNH 3.4. BẢNG DỰ BÁO CÁC NĂM TIẾP THEO 31
HÌNH 3.5. BIỂU ĐỒ KẾT QUẢ PHÂN TÍCH DỰ BÁO CÁC NĂM TIẾP THEO 31
MỞ ĐẦU
Ngày nay công nghệ thông tin đang ngày càng phát triển. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong công việc kinh doanh đang rất thịnh hành. Các doanh nghiệp ngày nay đã quá quen thuộc với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động của mình từ những công việc đơn giản hay phức tạp. Thế giới công nghệ vẫn đang thay đổi từng ngày và ngày càng đơn giản hóa mọi công việc, tìm ra giải pháp nhanh nhất cho mọi vấn đề. Để có thể theo kịp thời đại thì bản thân chúng ta phải thay đổi chính mình, phải tạo cho bản thân thích ứng với một thế giới mới, phải không ngừng phát triển bản thân.
1. Lý do chọn đề tài.
Chè là loại cây công nghiệp dài ngày được trồng nhiều ở vùng núi phía Bắc và Thái Nguyên. Sản xuất chè trong nhiều năm qua đã đáp ứng được nhu cầu về chè uống cho nhân dân và xuất khẩu đạt hàng chục triệu USD mỗi năm. Tuy có những thời điểm cây chè giá xuống thấp đời sống nhân dân trồng chè gặp nhiều khó khăn nhưng tổng thể cây chè vẫn giữ được vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân và góp phần tạo nên việc làm tăng thu nhập cho người nông dân trung du miền núi, vùng cao, vùng xa và góp phần bảo vệ môi môi sinh. Vì vậy để đạt sản lượng chè cao là vấn đề đang được coi trọng thúc đẩy tăng trưởng nền nông nghiệp nói riêng và nên kinh tế của nước ta nói chung.
Xuất phát từ lý trên e chọn đề tài “Ứng dụng phương pháp hồi quy đơn để dự báo về sản lượng chè tại công ty TNHH Tân Cương-Thái Nguyên “. Để dự báo về sản lượng chè mà công ty Tân Cương đã đạt được trong năm qua nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất phát triển ngành chè.
Mục tiêu và nhệm vụ nghiên cứu.
Trên cơ sở từ việc đánh giá phân tích thực trạng sản lượng của ngành chè Tân Cương trong những năm qua để từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát triển ngành chè tốt hơn so với các địa phương khác.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: đề tài mang đến cái nhìn tổng quan về việc dự báo về sản lượng chè trong doanh nghiệp và ứng dụng công nghệ thông tin phương pháp hồi quy đơn trong doanh nghiệp.
Về phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu về phương pháp hồi quy đơn để dự báo về sản lượng chè, tiến hành khảo sát và mô tả bài toán tại công ty TNHH Tân Cương-Thái Nguyên , từ đó tìm hiểu khái quát về dự báo sản lượng của công ty để đưa ra được chương trình dự báo tối ưu các hoạt động của công ty.
2. Phương pháp nghiên cứu
Khảo sát thực tế về sản lượng chè tại công ty TNHH Tân Cương-Thái Nguyên. Trên cơ sở đó Ứng dụng phương pháp hồi quy đơn và kết hợp với những hiểu biết về Excel để xây dựng dự báo về sản lượng chè tại công ty TNHH Tân Cương-Thái Nguyên.
Em xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy nhiệt tình của thầy Mai Ngọc Anh và cô Đàm Thị Phương Thảo đã tạo điều kiện giúp đỡ e hoàn thành chương trình này. Trong quá trình tìm hiểu và thực hiện em còn nhiều thiếu sót. Vì vậy, em mong có ý kiến đóng góp của thầy cô để chương trình em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Thái Nguyên, ngày 28 tháng 3 năm 2016
Sinh Viên
Ngọc Thị Đào
Chương 1.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHƯƠNG PHÁP HỒI
QUY TUYẾN TÍNH ĐỂ DỰ BÁO VỀ SẢN LƯỢNG CHÈ.
Khái quát về cây chè và sản lượng chè Thái Nguyên.
Chè là cây công nghiệp lâu năm, có nhiệm kỳ kinh tế dài, mau cho sản phẩm, hiệu quả kinh tế cao và ổn định. Cây chè trồng một lần có thể thu hoạch từ 30 – 40 năm hoặc lâu hơn, tùy thuộc vào điều kiện chăm sóc của con người.
Chè là cây trồng mà sản phẩm của nó có giá trị hàng hóa và giá trị xuất khẩu cao, thị trường tiêu dùng ổn định, nhu cầu tiêu thụ sản phẩm ngày càng cao.
Giá trị chè trên thị trường quốc tế trong những năm gần đây khá ổn định, bình quân từ 1200 – 1900 USD/ tấn chè đen và từ 200 – 300 USD/ tấn chè xanh, chè vàng.
Chè là cây trồng không tranh chấp về đất đai với cây lương thực, trồng chè có tác dụng phủ đất trống, đồi trọc, chống xói mòn.
Phát triển mạnh cây chè ở vùng trung du miền núi có tác dụng thu hút và điều hòa lao động trong phạm vi cả nước.
Cây chè góp phần công nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp ở vùng cao, giúp cho trung du miền núi tiến kịp miền xuôi về kinh tế – xã hội.
Trong đó tỉnh Thái Nguyên có diện tích trồng chè gần 18.000 ha, đứng thứ 2 trong cả nước, năng suất chè búp tươi bình quân đạt gần 100 tạ/ha, sản lượng gần 200.000 tấn.
Một số vấn đề lý luận về dự báo kinh tế xã hội.
Khái niệm dự báo đã hình thành từ đầu những năm 60 của thế kỉ 20. Khoa học dự báo với tư cách một ngành khoa học độc lập có hệ thống lí luận, phương pháp luận và phương pháp hệ riêng nhằm nâng cao tính hiệu quả của dự báo. Người ta thường nhấn mạnh rằng một phương pháp tiếp cận hiệu quả đối với dự báo là phần quan trọng trong hoạch định. Khi các nhà quản trị lên kế hoạch, trong hiện tại họ xác định hướng tương lai cho các hoạt động mà họ sẽ thực hiện. Bước đầu tiên trong hoạch định là dự báo hay là ước lượng nhu cầu tương lai cho sản phẩm hoặc dịch vụ và các nguồn lực cần thiết để sản xuất sản phẩm hoặc dịch vụ đó. Phân tích và dự báo ngắn hạn các chỉ tiêu cơ bản của nền kinh tế là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Chính thông qua công tác này có thể theo dõi sát sao tình hình kinh tế, hiểu rõ cơ chế hoạt động và những mối quan hệ trong nền kinh tế, từ đó dự báo được những khả năng phát triển có thể và đề xuất những chính sách kinh tế ngắn hạn có hiệu quả phục vụ công tác điều hành kinh tế theo mục tiêu của Chính phủ. Tại các nước công nghiệp và nhiều nước đang phát triển, quá trình xây dựng các mô hình đã được thực hiện thường xuyên từ nhiều thập kỷ; các mô hình ngày càng được chuẩn hóa, hình thành nên nhiều mô hình chuẩn và được lưu trữ trong máy tính để mỗi khi Chính phủ muốn áp dụng các chính sách mới thì tiến hành thử nghiệm trên máy, từ đó lựa chọn được những giải pháp tối ưu để áp dụng trong thực tế, hoặc mỗi khi có những thay đổi trong môi trường kinh tế quốc tế thì cũng có thể sử dụng mô hình để phân tích ảnh hưởng của chúng tới nền kinh tế và giúp lựa chọn những quyết sách cần thiết.
Như vậy “ dự báo là khoa học nghệ thuật tiên đoán những việc sẽ xảy ra trong tương lai , trên cơ sở phân tích khoa học về các dữ liệu đã thu thập được”.
1.1.2. Khái niệm về dự báo kinh tế xã hội
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của các ngành khoa học khác nhau, dự báo đã ra đời và phát triển. Ngày nay, dự báo được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, kinh tế - chính trị - xã hội với nhiều loại và phương pháp dự báo khác nhau. Dự báo kinh tế xã hội là sự phán đoán có căn cứ khoa học về những trạng thái có thể đạt tới trong tương lai của đối tượng nghiên cứu hoặc về những cách thức và thời hạn đạt được những mục tiêu và hiệu quả nhất định. Do dự báo chỉ cho chúng ta những thông tin có thể có trong tương lai nên nó mang một số đặc điểm riêng biệt: Thứ nhất, để nghiên cứu một hiện tượng kinh tế xã hội, dự báo có nhiều phương pháp khác nhau, mỗi phương pháp đều có ưu, nhược điểm riêng. Thứ hai, dự báo mang tính xác xuất, nghĩa là nó có một độ tin cậy nhất định và không phải lúc nào kết quả dự báo cũng chính xác. Đặc điểm này xuất phát từ đặc điểm thứ nhất là có nhiều phương pháp khác nhau cùng nghiên cứu về một hiện tượng nên có những kết quả khác nhau. Thứ ba, dự báo mang đặc điểm của dãy số tiền sử, tuân theo quy luật biến động của dãy số tiền sử. Dãy số này có đặc điểm gì và biến động như thế nào thì trong tương lai vẫn có thể biến động như vậy (thay đổi không đáng kể).
1.1.3. Các nguyên tắc của dự báo kinh tế xã hội
Cơ sở lý luận của dự báo kinh tế - xã hội là lý luận Mác – Lê nin về sự phát triển xã hội. Nhận thức tính khách quan và khả năng nhận thức các quy luật phát triển kinh tế - xã hội là nội dung cơ bản của dự báo. Phân tích chất lượng và quy mô của các hiện tượng kinh tế - xã hội hiện thực, phát hiện những điều kiện khách quan, những nhân tố và xu hướng phát triển, lý luận tái sản xuất mở rộng có ý nghĩa hàng đầu đối với dự báo các hiện tượng kinh tế - xã hội. Đề cập đến những yếu tố cơ bản của tái sản xuất (lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất), tốc độ và các nhân tố tăng trưởng kinh tế, lý luận tái sản xuất tạo ra cơ sở phương pháp luận để hình thành các nguyên tắc của dự báo kinh tế - xã hội.
a. Nguyên tắc liên hệ biện chứng
Các hiện tượng kinh tế - xã hội có liên hệ biện chứng với nhau. Những mối liên hệ đó có thể rất khác nhau: bản chất và không bản chất, cố định và tạm thời, trực tiếp và gián tiếp, tất nhiên và ngẫu nhiên, nguyên nhân và kết quả Nguyên tắc liên hệ biện chứng tạo ra công cụ phương pháp luận rất có hiệu quả để giải thích, phân tích đúng đắn và dự báo các hiện tượng kinh tế - xã hội. Vận dụng nguyên tắc này có nghĩa là trong phân tích và dự báo không thể không tính đến những mối liên hệ tồn tại giữa sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa các ngành, các thành phần kinh tế, những quan hệ quốc tế và những mối liện hệ khác nữa. Nguyên tắc liên hệ biện chứng đòi hỏi khi tiến hành dự báo các hiện tượng kinh tế xã hội phải có quan điểm đồng bộ, nghĩa là phải tính đến mối liên hệ giữa các hiện tượng kinh tế với các vấn đề về chính trị, pháp luật, dân số và các quan hệ xã hội khác. Nguyên tắc liên hệ biện chức đòi hỏi phải xem xét mọi hiện tượng kinh tế trong những điều kiện cụ thể có tính đến sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các mặt của hiện tượng kinh tế - xã hội. Vận dụng nguyên tắc liên hệ biện chứng đòi hỏi phải có quan điểm hệ thống trong phân tích hiện thực kinh tế. Theo quan điểm hệ thống, bất cứ một hiện tượng kinh tế - xã hội nào cũng là một hệ thống có liên hệ với các hiện tượng kinh tế - xã hội khác, gồm nhiều phần tử và phân hệ, trong đó nổi lên các quan hệ chính - phụ, nhân – quả, có tính quyết định của hệ thống. Các phân hệ không những phục tùng hệ thống, mà còn có tính độc lập tương đối, có những nhiệm vụ và mục tiêu riêng, phục tùng mục tiêu cuối cùng của hệ thống.
b. Nguyên tắc tính kế thừa lịch sử
Các hiện tượng và quá trính kinh tế - xã hội vận động và phát triển không ngừng theo thời gian và không gian từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp. Trạng thái hiện tại của các hiện tượng kinh tế - xã hội là kết quả hợp quy luật của sự phát triển trước đó, còn trạng thái tương lai của nó là kết quả hợp quy luật của sự vận động trong quá khứ và hiện tại. Do đó nghiên cứu đầy đủ và toàn diện sự vận động của các hiện tượng kinh tế - xã hội trong quá khứ và hiện tại sẽ tạo cơ sở cho việc dự báo và đánh giá tác động của các xu hướng trong tương lai. Sự nghiên cứu đó không chỉ có ý nghĩa đối với việc phát hiện nguồn gốc của sự phát triển của các hiện tượng kinh tế - xã hội, mà còn có ý nghĩa đối với việc dự báo xu hướng phát triển của các hiện tượng kinh tế - xã hội đó trong tương lai. Chỉ có thể dự báo về tương lai và không rơi vào không tưởng với điều kiện nghiên cứu sâu sắc hiện tượng kinh tế xã hội trong quá khứ và hiện tại. Những hiện tượng dù chỉ mới bộc lộ ra dưới hình thức phôi thai trong hiện tại cũng đã là căn cứ quan trọng để dự báo một cách khoa học các hiện tượng kinh tế - xã hội trong tương lai.
c. Nguyên tắc tính đặc thù về bản chất của đối tượng dự báo
Nguyên tắc này đòi hỏi khi dự báo phải tính đến đặc thù về bản chất của đối tượng dự báo, tính đặc thù của những quy luật phát triển của nó. Nếu vi phạm nguyên tắc này, đặc biệt là nếu ngoại suy hình thức các hiện tượng kinh tế - xã hội, thì có thể dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trong khi dự báo.
d. Nguyên tắc mô tả tối ưu đối tượng dự báo
Nguyên tắc này đỏi hỏi thông qua phân tích phải mô tả đối tượng dự báo như thế nào đó để đảm bảo cho việc xây dựng mô hình dự báo cho kết quả dự báo có độ tin cậy cao nhất với chi phí thấp nhất. Nguyên tắc này phải được thực hiện với những yêu cầu cụ thể: Một là, phải mô tả dự báo với mức độ hình thức hóa tối ưu, nghĩa là phải sử dụng các mô hình hình thức kết hợp với các phương pháp mô tả phi hình thức ở mức độ đảm bảo giải quyết được nhiệm vụ dự báo với chi phí thấp nhất. Hai là, phải mô tả đối tượng dự báo bằng một biến số và tham số tối thiểum bảo đảm độ chính xác của dự báo, đánh giá tầm quan trọng của mỗi biến số khi mô tả và chọn những biến số quan trọng nhất và có thông tin đầy đủ nhất phù hợp với nhiệm vụ dự báo. Ba là, phải chọn thang đo thích hợp cho mỗi chỉ tiêu nhằm đảm bảo thu thập thông tin để dự báo với chi phí thấp nhất.
e. Nguyên tắc tương tự của đối tượng dự báo
Nguyên tắc này đòi hỏi khi tiến hành dự báo phải thường xuyên so sánh những tính chất của đối tượng dự báo với những đối tượng tương tự đã biết và với các mô hình của các đối tượng đó nhằm tìm ra đối tượng tương tự. Từ đó sử dụng mô hình và một số yếu tố của mô hình để phân tích và dự báo. Nguyên tắc này một mặt cho phép tiết kiệm chi phí dự báo bằng cách sử dụng một phần các mô hình dự báo đã có sẵn, mặt khác đảm bảo kiểm tra kết quả dự báo bằng cách so sánh kết quả dự báo đó với dự báo các đối tượng tương tự.
Có thể nói, những nguyên tắc dự báo trên chỉ có ý nghĩa phương pháp luận. Trong thực tế khi vận dụng các nguyên tắc này vào phân tích và dự báo các đối tượng cụ thể là một vấn đề hết sức phức tạp. Tuy nhiên vận dụng càng tốt các nguyên tắc này thì chất lượng phân tích và dự báo càng cao.
1.1.4. Ý nghĩa và vai trò của phân tích dự báo trong quá trình ra quyết định kinh doanh.
- Ý nghĩa:
+ Dùng để dự báo các mức độ tương lai của hiện tượng , qua đó giúp các nhà quản trị doanh nghiệp chủ động trong việc đề ra các kế hoạch và các quyết định cần thiết phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh, đầu tư, quảng bá
+ Trong doanh nghiệp nếu công tác được dự báo được thực hiện một cách nghiêm túc còn tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
+ Dự báo chính xác sẽ giảm bớt được rủi ro cho doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung.
+ Dự báo chính xác là căn cứ để các nhà hoạch định các chính sách phát triển kinh tế văn hóa xã hội trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
+ Nhờ có dự báo các chính sách kinh tế , các kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế được xây dựng có cơ sở khoa học và mang lại hiệu quả cao trong kinh tế.
+ Nhờ có dự báo thường xuyên và kịp thời, các nhà quản trị doanh nghiệp có khả năng kịp thời đưa ra những biện pháp điều chỉnh các hoạt động kinh tế của đơn vị mình nhằm thu được hiệu quả kinh tế cao.
- Vai trò.
+ Dự báo tạo ra lợi thế cạnh tranh.
+ Công tác dự báo là một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động của các doanh nghiệp.
1.2. Phân loại dự báo.
Trong nền kinh tế thị trường, các hiện tượng kinh tế - xã hội không chỉ diễn ra ở lĩnh vực sản xuất vật chất mà diễn ra ở tất cả các mặt đời sống xã hội. Do vậy để có thể vận dụng có hiệu quả các phương pháp dự báo trong việc dự báo xu hướng phát triển của các hiện tượng kinh tế - xã hội trong tương lai thì phải phân loại dự báo theo các tiêu thức khác nhau.
1.2.1. Theo độ dài của thời gian dự báo, dự báo bao gồm:
- Dự báo ngắn hạn: Là những dự báo có thời gian dự báo dưới 3 năm, loại dự báo này thường dùng để dự báo hoặc lập các kế hoạch kinh tế, văn hoá, xã hội chủ yếu ở tầm vi mô và vĩ mô trong khoảng thời gian ngắn nhằm phục vụ cho công tác chỉ đạo kịp thời.
Tầm hạn thời gian của loại dự báo này không quá 1 năm. Mô hình được sử dụng để dự báo được xây dựng trên cơ sở dữ liệu thông tin gắn với các thời kỳ đơn vị ngắn hơn (tuần, tháng, quý). Dự báo ngắn hạn trước hết phục vụ cho công tác chỉ đạo tác nghiệp. Do vậy, chúng phục vụ cho việc phân biệt tức thời các quá trình kinh tế và cho việc thực hiện các quyết định thông qua người sử dụng chúng. Việc tiến hành dự báo ngắn hạn thườngđược tiến hành thường xuyên, do vậy tạo ra một nguồn thông tin dồi dào. Đây là cơ sở để đối chứng giữa kết quả dự báo với thực tế diễn ra của đối tượng cần được dự báo. So sánh thường xuyên hơn hai nguồn thông tin này cho phép có cơ hội hoàn thiện phương pháp dự báo.
- Dự báo trung hạn: Là những dự báo có thời gian dự báo từ 3 đến 5 năm. Thường phục vụ cho việc xây dựng những kế hoạch trung hạn về kinh tế văn hoá xã hội ở tầm vi mô và vĩ mô. Loại dự báo này có các đặc điểm chung là thường sử dụng mô hình dự báo nhân quả nhiều hơn so với dự báo ngắn hạn, tần số dự báo ít hơn so với dự báo ngắn hạn và so với dự báo dài hạn thì thường ít sử dụng mô hình nhân quả hơn và số lần đưa ra kết quả dự báo thì nhiều hơn.
- Dự báo dài hạn: Là những dự báo có thời gian dự báo từ 5 năm trở lên. Thường dùng để dự báo những mục tiêu, chiến lược về kinh tế chính trị, khoa học kỹ thuật trong thời gian dài ở tầm vĩ mô. Đặc trưng của loại dự báo này là tần số dự báo dài hạn nói chung là thấp, nhưng tính đồng bộ ở dự báo dài hạn cao hơn hẳn so với ở dự báo ngắn hạn và dự báo trung hạn. Kết quả dự báo dài hạn có đặc trưng chiến lược, cho nên việc đưa ra liên tiếp kết quả dự báo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
1.2.2. Căn cứ vào nội dung (đối tượng dự báo), có thể chia dự báo thành: dự báo khoa học, dự báo kinh tế, dự báo xã hội...
- Dự báo khoa học: Là dự kiến, tiên đoán về những sự kiện, hiện tượng, trạng thái nào đó có thể hay nhất định sẽ xảy ra trong tương lai. Theo nghĩa hẹp hơn, đó là sự nghiên cứu khoa học về những triển vọng của một hiện tượng nào đó, chủ yếu là những đánh giá số lượng và chỉ ra khoảng thời gian mà trong đó hiện tượng có thể diễn ra những biến đổi. - Dự báo kinh tế: Là khoa học dự báo các hiện tượng kinh tế trong tương lai. Dự báo kinh tế được coi là giai đoạn trước của công tác xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và dự án kế hoạch dài hạn; không đặt ra những nhiệm vụ cụ thể, nhưng chứa đựng những nội dung cần thiết làm căn cứ để xây dựng những nhiệm vụ đó. Dự báo kinh tế bao trùm sự phát triển kinh tế và xã hội của đất nước có tính đến sự phát triển của tình hình thế giới và các quan hệ quốc tế. Thường được thực hiện chủ yếu theo những hướng sau: dân số, nguồn lao động, việc sử dụng và tái sản xuất chúng, năng suất lao động; tái sản xuất xã hội trước hết là vốn sản xuất cố định: sự phát triển của cách mạng khoa học – kĩ thuật và công nghệ và khả năng ứng dụng vào kinh tế; mức sống của nhân dân, sự hình thành các nhu cầu phi sản xuất, động thái và cơ cấu tiêu dung, thu nhập của nhân dân; động thái kinh tế quốc dân và sự chuyển dịch cơ cấu (nhịp độ, tỉ lệ, hiệu quả); sự phát triển các khu vực và ngành kinh tế (khối lượng động thái, cơ cấu, trình độ kỹ thuật, bộ máy, các mối liên hệ ngành); phân vùng sản xuất, khai thác tài nguyên thiên nhiên và phát triển các vùng kinh tế trong nước, các mối liên hệ liên vùng; dự báo sự phát triển kinh tế của thế giới kinh tế. Các kết quả dự báo kinh tế cho phép hiểu rõ đặc điểm của các điều kiện kinh tế - xã hội để đặt chiến lược phát triển kinh tế đúng đắn, xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển một cách chủ động, đạt hiệu quả cao và vững chắc.
- Dự báo xã hội: Dự báo xã hội là khoa học nghiên cứu những triển vọng cụ thể của một hiện tượng, một sự biến đổi, một qúa trình xã hội, để đưa ra dự báo hay dự đoán về tình hình diễn biến, phát triển của một xã hội.
.
1.3. Tiêu chuẩn lựa chọn phương pháp dự báo.
Để dự báo một hiện tượng nào đó trong tương lai, có 5 tiêu chuẩn để lựa chọn phương pháp dự báo thích hợp. Đó là:
- Độ chính xác của dự báo: độ chính xác của dự báo được đo bằng thước đo thống kê. Độ chính xác của dự báo đề cập đến độ chênh lệch của dự báo với số liệu thực tế. Bởi vì dự báo được hình thành trước khi số liệu thực tế xảy ra, vì vậy tính chính xác của dự báo chỉ có thể đánh giá sau khi thời gian đã qua đi. Nếu dự báo càng gần với số liệu thực tế, ta nói dự báo có độ chính xác cao và lỗi trong dự báo càng thấp.
- C