Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay
là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch
và các công cụ khác. Từ thực tiễn đổi mới hơn 15 năm qua, tại đại hội Đảng IX đã
khẳng sự tất phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất
yếu, trong đó Nhà nước đóng vai trò điều hành nền kinh tế vĩ mô (định hướng và điều
tiết) nhằm phát huy vai trò tích cực, hạn chế và ngăn ngừa các mặt tiêu cực của nền
kinh tế thị trường. Trong quá trình đổi mới và thực hiện việc cải cách hành chính hiện
nay, cải cách là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô được đổi mới và ngày càng hoàn thiện.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội là định hướng cơ bản cho sự vận động của cơ chế
thị trường ở nước ta. Chúng ta đang đẩy nhanh, mạnh việc xây dựng hệ thống pháp
luật, các thể chế kinh tế, tăng cường việc sử dụng các công cụ tài chính và tiền tệ để
điều tiết thị trường. Như vậy nền kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường đòi hỏi tăng
cường chứ không làm giảm nhẹ vai trò quản lý của Nhà nước bất luận là Nhà nước tư
bản chủ nghĩa hay Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa chúng ta đang xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế đi vào thị trường thế giới không phân biệt chế
độ chính trị kinh tế của Nhà nước.
29 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2096 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vai trò của kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
Phần thứ nhất: Giới thiệu đề tài
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy tới một bước
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu , nước mạnh, xã hội công bằng văn
minh từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cơ chế quản lý kinh tế mới ở nước ta hiện nay
là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch
và các công cụ khác. Từ thực tiễn đổi mới hơn 15 năm qua, tại đại hội Đảng IX đã
khẳng sự tất phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất
yếu, trong đó Nhà nước đóng vai trò điều hành nền kinh tế vĩ mô (định hướng và điều
tiết) nhằm phát huy vai trò tích cực, hạn chế và ngăn ngừa các mặt tiêu cực của nền
kinh tế thị trường. Trong quá trình đổi mới và thực hiện việc cải cách hành chính hiện
nay, cải cách là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô được đổi mới và ngày càng hoàn thiện.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội là định hướng cơ bản cho sự vận động của cơ chế
thị trường ở nước ta. Chúng ta đang đẩy nhanh, mạnh việc xây dựng hệ thống pháp
luật, các thể chế kinh tế, tăng cường việc sử dụng các công cụ tài chính và tiền tệ để
điều tiết thị trường. Như vậy nền kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường đòi hỏi tăng
cường chứ không làm giảm nhẹ vai trò quản lý của Nhà nước bất luận là Nhà nước tư
bản chủ nghĩa hay Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Hơn nữa chúng ta đang xây dựng nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần áp dụng cơ chế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và mở rộng quan hệ quốc tế đi vào thị trường thế giới không phân biệt chế
độ chính trị kinh tế của Nhà nước.
Thực tế đã chứng minh từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế trị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và nâng cao vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường ở nước ta hết sức quan trọng, đặc biệt là trong những năm gần đây, sự quản lý
vĩ mô của Nhà nước đã và đang tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trường phát huy mặt
tích cực và khắc phục những mặt hạn chế, đời sống của toàn thể nhân dân thực sự
được cải thiện.
Do đó việc nghiên cứu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và vai trò
của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay được đề ra hết
sức nghiêm túc và cần thiết. Đây là một vấn đề lớn nhưng trong giới hạn cho phép em
xin được đề cập giải quyết một số nội dung cơ bản được phản ánh ở các vấn đề:
*Lý luận sự cần thiết khách quan dẫn đến nghiên cứu đề tài
*Kinh tế thị trường và các đặc trưng của kinh tế thị trường.
*Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
*Vai trò của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
*ý nghĩa của đề tài nghiên cứu.
Do phạm vi rộng lớn và tính chất phức tạp của đề tài nhất là trong giai đoạn
hiện nay : trong quá trình chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sạng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên bài viết không thể đi sâu và phân tích
đầy đủ các vấn đề.
Phần hai: Nội dung chính của đề tài.
I: Kinh tế trị trường và các đặc trưng của Kinh tế trị
trường.
1.Bản chất của kinh tế trị trường.
Xuất phát từ khái niệm về kinh tế thị trường là kinh tế hàng hoá phát triển ở
trình độ cao, mà ở đó toàn bộ các yếu tố sản xuất đầu vào và sản phẩm đầu ra đều
thông qua thị trường và do thị trường quyết định. Ta có thể thấy bản chất của kinh tế
thị trường: là trong đó các chủ thể kinh tế trong xã hội đều hướng tới mục tiêu lợi
nhuận, lấy lợi nhuận làm động lực sản xuất kinh doanh, các vấn đề: sản xuất cái gì?
Sản xuất cho ai? Và sản xuất như thế nào? đều do thị trường quyết định.
Chúng ta đang từng bước thực hiện những quá trình mang tính quy luật của
bước chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự
điều tiết vĩ mô của Nhà nước, với tự do hóa thương mại và tự do hóa giá cả là khâu
trung tâm đột phá từng bước tiến tới cơ chế thị trường đích thực, đó là một cơ chế phát
huy vai trò điều tiết của Nhà nước hình thành bước đầu của thị trường cạnh tranh làm
cho hàng hóa lưu thương, cân đối cung cầu, thoát khỏi khủng hoảng thiếu, giá cả được
ổn định dần, lạm phát được ngăn chặn.
Chúng ta chủ trương chuyển sang cơ chế thị trường trên cơ sở ổn định chính trị,
lấy ổn định chính trị làm tiền đề và làm điều kiện cho cải cách kinh tế. Mặt khác cũng
nhận thức rõ phải đổi mới mạnh mẽ trong lĩnh vực hành chính trên cơ sở đổi mới quản
lý của Nhà nước nâng cao chất lượng hiệu quả quản lý cho nó phù hợp với điều kiện
kinh tế thị trường mà tiếp tục ổn định chính trị đưa cải tiến lên trên bước phát triển
mới.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của kinh tế thị trường:
2.1. Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hoá:
2 .1.1. Khái quát về kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá.
Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá là hai hình thức tổ chức kinh tế – xã hội đã
tồn tại trong lịch sử. Nền sản xuất xã hội trong bất kỳ một giai đoạn lịch sử nào cũng
phải giải quyết ba vấn đề cơ bản là: sản xuất ra cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản
xuất cho ai? Kinh tế tự nhiên chính là hình thái tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên mà lịch
sử loài người sử dụng để giải quyết 3 vấn đề trên..
Trong nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Tự
sản xuất, tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật của kinh tế tự nhiên. Mục đích của sản xuất
là tạo ra những giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân
người sản xuất, vì thế có thể nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên gồm hai
khâu: sản xuất – tiêu dùng. Các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế tự nhiên đều mang
hình thái hiện vật.
Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích sản xuất là trao đổi hay để bán. Mục đích
đó được xác định từ trước quá trình sản xuất và có tính khách quan. Sản xuất và toàn
bộ quá trình tái sản xuất đều gắn với thị trường.
2.1.2. Những tiền đề của quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế
hàng hoá.
Theo đà phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, đồng
thời gắn với nó đó là sự tan rã của chế độ cộng sản nguyên thuỷ, quan hệ trao đổi ngày
càng phát triển mạnh. Khi trao đổi trở thành mục đích phổ biến và thường xuyên của
sản xuất thì kinh tế tự nhiên dần chuyển thành kinh tế hàng hoá.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình khách quan. Trong lịch
sử, những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá - tiền tệ tồn tại đan xen và
mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất hiện
những tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hoá . Mỗi bước
phát triển của kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, quá
trình vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và
khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế – xã hội độc lập
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra rằng kinh tế hàng hoá
muốn ra đời và tồn tại được cần có hai điều kiện:
*Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành nghề sản xuất khác nhau.
Do phân công lao động xã hội nên mỗi người chuyên sản xuất một loại hàng hoá nhất
định. Nhưng nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để
thoả mãn nhu cầu này họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Làm nảy sinh quan hệ kinh
tế giữa những ngưới sản xuất.
*Trong điều kiện tư hữu về tư liệu sản xuất, những người sản xuất độc lập với
nhau và có lợi ích kinh tế khác nhau.
Phân công lao động xã hội phát triển cũng dẫn tới sự ra đời của ngành thương nghiệp.
Khi thương nghiệp ra đời quan hệ trao đổi đã có mầu sắc mới. Người sản xuất và
người tiêu dùng quan hệ với nhau qua nhân vật thứ ba là thương nhân. Thương nghiệp
phát triển làm cho sản xuất và lưu thông hàng hoá cùng với lưu thông tiền tệ được
phát triển nhanh chóng.
Quan hệ trao đổi ngày càng được mở rộng và phát triển đỏi hỏi hệ thống giao
thông vận tải cũng phải mở rộng và phát triển đây là điều kiện vật chất làm tăng thêm
các phương tiện trao đổi mở rộng thị trường.
2.2. Quá trình chuyển từ kinh tế hàng hoá giản đơn sang nền kinh tế thị
trường..
2.2.1. Khái niệm về kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn
bộ các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất đều thông qua thị trường.
Kinh tế hàng hoá phát triển, điều đó có nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và
thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm những sản
phẩm đầu ra của sản xuất mà còn bao gồm cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Mọi
quan hệ kinh tế trong xã hội đều tiền tệ hoá. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là
kinh tế thị trường.
2.2.2. Những điều kiện hình thành kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường được hình thành với những điều kiện sau:
Một là: sự xuất hiện của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động. Cần khẳng
định rằng sự xuất hiện hàng hoá sức lao động là một tiến bộ lịch sử. Ngươi lao động
của mình và là chủ thể bình đẳng trong việc thương lượng với người khác
Hai là: Phải tích luỹ được một số vốn nhất định để tiến hành sản xuất kinh
doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận
Ba là: Cần phải có hệ thống tài chính, tín dụng, ngân hàng tương đối phát triển
Có người cho rằng kinh tế thị trường là kinh tế tiền tệ, mọi hoạt động kinh tế đều có
thể được biểu hiện bằng chỉ tiêu tiền tệ, cho nên vai trò của tiền tệ vô cùng quan trọng.
Bốn là: Sự hình thành kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một kết cấu hạ tầng
tương đối phát triển. Trên cơ sở đó mới bảo đảm cho lưu thông hàng hoá và lưu thồng
tiền tệ để thuận lợi nhằm mở rộng quan hệ trao đổi
Năm là: Tăng cường vai trò kinh tế của Nhà nước. Đối với nước ta, đây là vấn
đề có tính then chốt để hình thành nền kinh tế thị trường
Với tác động của tất cả các tiền đề trên, nền kinh tế thị trường được xã hội hoá cao, các
quan hệ kinh tế mang hình thái phổ biến là quan hệ hàng hoá - tiền tệ và nó được tiền
tệ hoá. Các quy luật của kinh tế thị trường được phát huy tác dụng một cách đầy đủ.
3. Những đặc trưng của kinh tế thị trường .
Những đặc trưng chung nhất, vốn có của kinh tế thị trường :
Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao.
Các chủ thể trong nền kinh tế thị trường bao gồm các doanh nghiệp, các hộ kinh
doanh, các cá nhân và cả nhà nước. Họ chính là người đề ra các quyết sách kinh tế, các
quyết định trong kinh doanh, họ phải tự chụi trách nhiệm về tính khả thi của các quyết
sách, quyết định được ban hành, cũng như phải tự gánh chịu mọi rủi ro.
Hai là: Trên thị trường hàng hoá rất phong phú.
Người ta tự do mua, bán hàng hoá. Trong đó người mua chọn người bán, người bán
tìm người mua. Họ gặp nhau ở giá cả thị trường. Đặc trưng này không thể có được
trong nền kinh tế hàng hoá kém phát triển. Chỉ trong nền sản xuất hàng hoá phát triển
cao của lực lượng sản xuất, của phân công và chuyên môn hoá lao động mới có được
đặc trưng này.
Ba là: Giá cả để hình thành ngay trên thị trường.
Giá cả thị trường vừa là biểu hiện bằng tiền của giá thị trường, vừa chịu sự tác động
của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Trên cơ sở giá thị
trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả thuận giữa người mua và người
bán. Đặc trưng này phản ánh yêu cầu của luật lưu thông hàng hoá
Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của thị trường.
Nó tồn tại trên cơ sở những đơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích
kinh tế. Tuy nhiên cần phân biệt cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh lành mạnh là cạnh tranh diễn ra trong khuôn khổ của pháp luật và bằng
những biện pháp kinh tế kỹ thuật qua đó nâng cao năng xuất lao động, số lượng và
chất lượng hàng hoá dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm, tăng hiệu quả trong kinh doanh.
Cạnh tranh lành mạnh là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh không lành mạnh là những quan hệ cạnh tranh được tiến hành bằng những
biện phát phi kinh tế, vi phạm phát luật và thu lời bất chính. Quan hệ cạnh tranh kiểu
này gây hại cho người tiêu dùng và gây thiệt hại cho cả xã hội. Nói chung cần phải
nghiêm trị bằng phát luật.
Năm là: kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở.
Bởi nó lấy trao đổi làm mục đích của sản xuất kinh doanh. Đã trao đổi phải mở của
hướng ra bên ngoài. Nó rất đa dạng, phức tạp và được điều hành bởi hệ thống tiền tệ
và hệ thống pháp luật của Nhà nước.
II: Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt
Nam.
1: bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như chúng ta đều biết, từ Đại hội VI, Đảng ta đã đề ra chủ trương cho phép sử
dụng nhiều hình thức kinh tế, khai thác mọi khả năng của các thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, coi đây là một giải pháp có ý nghĩa chiến
lược góp phần giải phóng mọi khả năng để phát triển lực lượng sản xuất.
Hội nghị Trung ương sáu khoá VI phát triển thêm một bước, đưa ra phát triển kinh tế
hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi chính sách
kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ
đi lên chủ nghĩa xã hội
Đến đại hội VII Đảng ta tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này càng khẳng định đây là chủ
trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cương lĩnh của
Đảng đã khảng định: “phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
”. Nhưng lúc đó cũng mới nói đến kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường chứ chưa nói
đến thuật ngữ: “ Kinh tế thị trường ”. Đến Đại hội Đảng IX đưa ra khái niệm “ kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nội hàm của khái niệm này thực chất vẫn là
phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói rõ được mô hình kinh tế
nước ta trong thời kỳ quá độ.
Nói đến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nền kinh tế của
chúng ta không phải là nền kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu bao
cấp, nhưng đó cũng không phải là nền kinh tế thị trường tự do theo cách nói của tư
bản, tức không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa ; và cũng chưa phải hoàn
toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, bởi vì như trên chúng ta đã nói, chúng ta
còn đang tronhg thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen giữa cái cũ và
cái mới, vừa có vừa chưa có đầy đủ yếu tố của chủ nghĩa xã hội .
2: các đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức
kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên
những nguyên tắc và cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở
hữu, tổ chức quản lý, và phân phối. So với kinh tế tư bản chủ nghĩa kinh tế định hướng
xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng chủ yếu sau:
* Mục tiêu chiến lược của đường lối phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam là giải
phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực hiện công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, nâng
cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện từng bước đời sống của nhân dân, gắn tăng
trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
* Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế nhiều
thành phần trong kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo.
* Trong điều kiện hiện tại , cả kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa đều cần sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, song điều khác
nhau là ở bản chất của hai nhà nước. Kinh tế thị truờng tư bản chủ nghĩa, Nhà nước là
Nhà nước của giai cấp tư sản, tự do dân chủ cũng là tự do dân chủ tư sản, và vậy Nhà
nước can thiệp kinh tế là để bảo vệ lợi ích cảu giai cấp tư sản. Còn kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam, Nhà nước là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân, và vậy Nhà nước can thiệp kinh tế là bảo vệ lợi ích của đại đa số nhân dân lao
động.
* Trong nền kinh tế thị trường tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức phân phối Trong
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hình thức phân phối chủ yếu là phân phối theo
vốn, theo trình độ bóc lột, theo sức lao động, chủ yếu phục vụ mục đích thu lợi nhuận
tối đa của chủ tư bản. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa lấy phân
phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yêú, bên cạnh đó có kết hợp với
các hình thức phân phối khác nữa để vừa khuyến khích lao động, vừa đảm bảo phúc
lợi cơ bản.
III: vai trò kinh tế của Nhà nước.
1.Vai trò kinh tế của Nhà nước nói chung trong lịch sử:
Nhà nước luôn là vấn đề trung tâm của những cuộc đấu tranh chính trị. Mọi
Đảng trong cương lĩnh hoạt động của mình bao giờ cũng hướng mục tiêu vào việc
giành lấy chính quyền Nhà nước. Trong lịch sử phát triển có nhiều cách giải quyết
khác nhau về nguồn gốc và bản chất của Nhà nước. Theo một số quan điểm thì tôn
giáo là quyền lực của Thượng Đế ở trần gian cho đến khi giai cấp tư sản làm cách
mạng đã lên án quan điểm này, họ cho rằng Nhà nước xuất phát từ xã hội, để điều
khiển và quản lý xã hội. Theo họ thì Nhà nước là do nhân dân bầu ra và quyền lực
thuộc về nhân dân. Theo quan điểm của Mác, ông thừa nhận Nhà nước sinh ra từ xã
hội nhưng không phải là khế ước của xã hội mà nó xuất phát từ những mâu thuẫn giai
cấp không thể điều hòa. Mâu thuẫn này dẫn đến cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt để
đi đến một nhu cầu của xã hội là phải có một tổ chứ quyền lực đủ mạnh để duy trì xã
hội tồn tại trong một trật tự nhất định sao cho phù hợp với lợi ích của giai cấp thống
trị, tổ chức ấy chính là Nhà nước. Như vậy Nhà nước là công cụ bạo lực để thống trị
giai cấp, giai cấp nào thống trị về mặt kinh tế thì giai cấp đó sẽ thống trị về mặt chính
trị (hay Nhà nước ). Nhà nước chính là công cụ để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị.
Trong lịch sử phát triển của mình, các Nhà nước đã có phương pháp khác nhau
để nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ chức năng quản lý của mình. Nhà nước chủ nô - kiểu
Nhà nước đầu tiên trong lịch sử loài người chỉ bảo vệ cho quyền lợi của giai cấp chủ
nô là giai cấp chiếm đoạt khối lượng của cải được sản xuất ra bởi những người nô lệ,
những người bị đàn áp, thống trị bằng bạo lực. Trong thời đại phong kiến Nhà nước
phong kiến không chỉ can thiệp vào việc phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực
lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng cho sản xuất nông nghiệp.
Trong những năm đầu của chủ nghĩa tư bản, chúng ta đã thấy sự phát triển của
chủ nghĩa trọng thương với đặc điểm của nó là đánh giá rất cao vai trò kinh tế của Nhà
nước. Không phải là không có căn cứ với sự đề cao này mà thực tế như chúng ta đã
biết chủ nghĩa trọng thương là hệ thống tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa tư bản (CNTB),
chủ nghĩa trọng thương tương ứng với thời kỳ tích lũy nguyên thuỷ của CNTB. Giai
cấp tư sản rất cần có chỗ dựa vững chắc cho Nhà nước thông qua chỗ dựa này, việc
tích lũy tư bản sẽ tiến hành nhanh chóng hơn và hiệu quả cao hơn. Đối với trường phái
này muốn phát triển kinh tế thì phải dựa vào sức mạnh của Nhà nước. Họ đánh giá cao
các chính sách kinh tế của Nhà nước, ủng hộ chính quyền Nhà nước. Vì vậy ở trong
thời kỳ này vai trò kinh tế của Nhà nước được xác lập và nâng cao.
Ngược lại với chủ nghỉa trọng thương, các nhà kinh tế học cổ điển mà nổi bật là
Adam Smith (1723 - 1790) lại cho rằng Nhà nước chỉ nên thực hiện các chức năng
nguyên thuỷ của mình. Lập pháp bảo vệ an ninh quốc gia xét xử những tranh chấp,
chứ không nên can thiệp vào các quá trình kinh tế. Theo Adam Smith việc tổ chức nền
kinh tế hàng hóa cần theo nguyên tắc tự do. Ông ủng hộ tự do cạnh tranh và chính ông
cũng đưa ra