Nhân loại sắp rời xa thế kỷ XX - thiên niên kỷ mà ở đó nhân loại đã chứng 
kiến những sự tích tích kỳ diệu trong lịch sử của chính mình.
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật khởi đầu từ thế kỷ XVII đã và đang 
từng ngày tạo ra ra những biến đổi lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 
Con người ngày càng ít phụ thuộc vào thiên nhiên hơn, mà đã có quan điểm cho 
rằng con người đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu trong lực lượng sản xuất. Tiến sang 
thế kỷ XXI nơi mà như Alvin Toffler gọi là làn sóng thứ 3 - con người bước vào 
nền văn minh trí tuệ thì vai trò của nó sẽ ở vị trí nào ?
Việt Nam đang từng bước trên con đường Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất 
nước. Sau hơn chục năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, 
bên cạnh đó còn có nhiều vấn đề gay go cần được giải quyết sớm. Nguồn lức con 
người chưa được đánh giá và phát huy một cách đầy đủ, để thúc đẩy nhanh hơn ữa 
tiến trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước.
Trong phạm vi bài tiểu luận này em xin được phân tích về: "Vai trò của 
nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất 
nước". Do năng lực có hạn nên em chỉ đề cập được một số điểm cơ bản sau:
I. Vai trò của con người trong sự vận động và phát triển đời sống xã hội.
II. Tính tất yếu của Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá.
III. Nguồn lực con người trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
IV. Thực trạng và yêu cầu về con người trong Công nghiệp hoá - Hiện 
đại hoá.
V. Suy nghĩ về giải pháp của bản thân.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2183 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Vai trò của nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 LUẬN VĂN: 
Vai trò của nguồn lực con người 
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, 
hiện đại hoá của đất nước 
đặt vấn đề 
Nhân loại sắp rời xa thế kỷ XX - thiên niên kỷ mà ở đó nhân loại đã chứng 
kiến những sự tích tích kỳ diệu trong lịch sử của chính mình. 
Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật khởi đầu từ thế kỷ XVII đã và đang 
từng ngày tạo ra ra những biến đổi lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. 
Con người ngày càng ít phụ thuộc vào thiên nhiên hơn, mà đã có quan điểm cho 
rằng con người đã bị đẩy xuống hàng thứ yếu trong lực lượng sản xuất. Tiến sang 
thế kỷ XXI nơi mà như Alvin Toffler gọi là làn sóng thứ 3 - con người bước vào 
nền văn minh trí tuệ thì vai trò của nó sẽ ở vị trí nào ? 
Việt Nam đang từng bước trên con đường Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất 
nước. Sau hơn chục năm đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, 
bên cạnh đó còn có nhiều vấn đề gay go cần được giải quyết sớm. Nguồn lức con 
người chưa được đánh giá và phát huy một cách đầy đủ, để thúc đẩy nhanh hơn ữa 
tiến trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước. 
Trong phạm vi bài tiểu luận này em xin được phân tích về: "Vai trò của 
nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất 
nước". Do năng lực có hạn nên em chỉ đề cập được một số điểm cơ bản sau: 
I. Vai trò của con người trong sự vận động và phát triển đời sống xã hội. 
II. Tính tất yếu của Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. 
III. Nguồn lực con người trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 
IV. Thực trạng và yêu cầu về con người trong Công nghiệp hoá - Hiện 
đại hoá. 
V. Suy nghĩ về giải pháp của bản thân. 
I. con người trong sự vận động và phát triển đời sống xã hội 
1. Con người - Tổng hoà của những mối quan hệ xã hội. 
Xã hội không phải là phép cộng giản đơn các cá nhân mà là một hệ thống 
các hoạt động và các hoạt động của con người trên một lãnh thổ ở một giai đoạn 
lịch sử nhất định. Như vậy con người là phần tử cơ bản để tạo nên xã hội - là một 
trong những “cái riêng” hợp thành “cái chung”. 
Hệ thống ở đây được hiểu là sự thống nhất biện chứng của các mâu thuẫn 
giữa các yếu tố, các phương diện, các quan hệ tạo thành xã hội xét trong thời gian, 
không gian và phải xem điều đó như là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của cả 
hệ thống cũng như của từng yếu tố tạo nên hệ thống. 
Các hoạt động của con người là các hoạt động lao động - hoạt động đặc 
trưng và các hoạt động bảo đảm an ninh trong môi trường đối ngoại. Quan hệ xã hội 
là những quan hệ được xác lập giữa các cộng đồng xã hội và các cá nhân với tư 
cách là chủ thể của hoạt động xã hội - cái thực thể xã hội tạo ra hoạt động xã hội. 
Những quan hệ xã hội đó ngày càng trở nên phong phúvà không ngừng biến đổi 
trong tiến trình lịch sử từ tổng thể các quan hệ. “Quy” các quan hệ tinh thần về các 
quan hệ vật chất, từ các quan hệ vật chất rút ra quan hệ sản xuất - đó là những quan 
hệ cơ bản, đầu tiên và quy định các quan hệ xã hội. Quan hệ sản xuất hình thành 
một cách tất yếu độc lập với ý chí của con người, thích ứng với trình độ phát triển 
của lực lượng sản xuất và sự biến đổi của quan hệ sản xuất là do lực lượng sản xuất 
quy định. 
Phép biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vạch ra quy 
luật khách quan của sự phát triển xã hội như một quá trình lịch sử tự nhiên. Toàn bộ 
những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế - xã hội - tức là các cơ sở hiện 
thực - trên đó xác định một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị. Tương ứng 
với cơ sở thực tại đó thì có những hình thái và ý thức xã hội nhất định. Phương thức 
sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội. Chính sự thống 
nhất của các mâu thuẫn giữa các yếu tố của phương thức sản xuất trong quá trình 
vận động đã thúc đẩy sự phát triển xã hội. 
Con người làm ra lịch sử của mình. Các quan hệ xã hội nhất định là sản 
phẩm của hoạt động của con người. Lịch sử phát triển của con người là lịch sử phát 
triển tổng thể của những quan hệ xã hội. 
2. Con người và phát triển xã hội 
Xã hội là một cộng đồng người với những quan hệ xã hội xác định. Sự phát 
triển xã hội chính là sự phát triển con người cũng như những quan hệ xã hội đó. Từ 
hoạt động thực tiễn ý thức của con người hình thành nên những quan hệ xã hội 
nhưng sự tác động trở lại của quy luật xã hội lại không phụ thuộc vào ý thức của 
con người. Quy luật xã hội thường biểu hiện ra như một xu hướng chứ không thể 
hiện trực tiếp ở từng cá nhân. Tính chất tự vách đường cho nó thông qua hàng loạt 
những ngẫu nhiên qua sự va chạm với những xu hướng đối lập mà các lực lượng thù 
nghịch bảo vệ. 
Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, cũng là cơ sở của 
quy luật xã hội. Chính những quan hệ kinh tế khách quan tất yếu hình thành trong 
quá trình sản xuất dựa trên trình độ nhất định của lực lượng sản xuất là cơ sở nảy 
sinh các quan hệ khác của đời sống xã hội và chi phối moị hoạt động xã hội của con 
người. Những quan hệ kinh tế đó trong xã hội có đối kháng trở thành động lực thúc 
đẩy sự phát triển của xã hội. 
Lịch sử đã và đang được con người sáng tạo ra và chỉ do con người sáng tạo 
ra mà thôi. Khi chưa nhận thức được quy luật xã hội thì con người là “ nô lệ” của 
quá trình tất yếu. Nhưng khi đã nhận thức đầy đủ thí con người có thể điều khiển 
hoạt động của mình theo quy luật một cách tự giác... hướng sự vận động của xã hội 
theo sự phát triển của mình. 
II. Thực chất của công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 
1. Bối cảnh và cách nhìn cũ 
Như ta đã biết hoạt động lao động là hoạt động đặc trưng, cơ bản của con 
người. Sản xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử được biểu hiện ở một phương thức sản 
xuất nhất định. Phương thức sản xuất - đó là cách thức mà con người làm ra của cải 
vật chất, là nhân tố quyết định tính chất, kết cấu cũng như sự vận động, phát triển 
của xã hội. Mác đã viết rằng “ cái chìa khoá để nghiên cứu những quy luật của lịch 
sử xã hội không phải ở trong óc người, trong tư tưởng và ý niệm của xã hội mà ở 
trong phương thức sản xuất do xã hội thực hành trong mỗi giai đoạn nhất định của 
lịch sử dưới chế độ kinh tế - xã hội”. 
Khái niệm Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá hình thành từ cuộc cách mạng 
công nghiệp Anh( 18) - cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới, đánh 
dấu bước ngoặt trong lịch sử phát triển nhân loại. Đó là bước khởi đầu của cuộc 
cách mạng khoa học - kỹ thuật. Từ kinh nghiệm của nước Anh các nước theo sau đã 
rút ngắn được thời gian mò mẫm. ở vào giai đoạn đầu đó người ta xem Công nghiệp 
hoá - Hiện đại hoá xã hội như quá trình phát triển của khoa học - kỹ thuật, quy 
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá về phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghệ. 
Các nước tư bản châu Âu, châu Mỹ... đã rộ lên những chiến lược về khoa 
học - kỹ thuật và công nghệ. Nói chung thì các nước này đã thành công đáng kể. 
Tuy nhiên việc nhận thức không đầy đủ về Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đã tạo 
ra những phát triển không đồng đều; tạo nên những mâu thuẫn trong nhiều lĩnh vức 
của đời sống xã hội. Đó cũng là nguyên nhân dẫn đến những tiêu cực lịch sử đã xảy 
ra. 
ở Việt Nam nền kinh tế - xã hội phát triển rất muộn so với trình độ thế giới. 
Do đó từ thực tiễn đến lý luận Việt Nam đã xác định cho mình đường lối, kế hoạch 
đúng đắn. Sau hơn chục năm đổi mới trong sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại 
hoá đất nước - bộ mặt kinh tế - xã hội Việt Nam đã thay đổi đáng kể. Đó là những 
thành tựu to lớn. Cần tiếp tục phát huy hơn nữa. 
2. Khoa học kỹ thuật - lực lượng sản xuất trực tiếp 
Khi nền sản xuất còn ở trình độ thấp, con người không thể tiến hành sản xuất 
có kết quả nếu không dựa vào những điều kiện tự nhiên. Quá trình sản xuất ngày 
càng phát triển, con người ngày càng giảm sự lệ thuộc vào tự nhiên hơn. Ngày nay 
hầu như mọi người đều thừa nhận các phương tiện, công cụ sản xuất có vai trò rất 
quan trọng nhưng không phải là yếu tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản 
xuất. Xong với khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại tình hình lại không đơn 
giản như vậy. 
Khoa học - kỹ thuật vốn là hai lĩnh vực tương đối độc lập. Cùng với sự phát 
triển của sản xuất. Khoa học - kỹ thuật càng phát triển lại càng có mối quan hệ, tác 
động qua lại khăng khít lẫn nhau cùng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Khoa 
học - kỹ thuật và công nghệ đã tạo ra những công cụ chủ yếu trong sản xuất và 
chính khoa học - kỹ thuật và công nghệ lại là cơ sở cho sự phát triển của bản thân 
nó. 
3. Vai trò con người trong khoa học - kỹ thuật 
Phải nói rằng khoa học - kỹ thuật và công nghệ trước tiên là sản phẩm của 
quá trình hoạt động nhận thức của con người, là sản phẩm của sự phát triển trí tuệ 
con người, gắn liền với con người. Con người sáng tạo ra và quyết định xu hướng 
tốc độ phát triển của khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Chính con người quyết định 
việc sử dụng những loại tri thức khoa học - kỹ thuật và công nghệ nào vào sản xuất 
và sử dụng như thế nào để sản xuất có hiệu quả. Con người sử dụng khoa học - kỹ 
thuật và công nghệ - sản phẩm lao động trí tuệ của mình để cải tạo đối tượng lao 
động, biến đổi giá trị của các tài nguyên thiên nhiên, cải tiến và sử dụng công cụ lao 
động, tư liệu lao động. Đồng thời con người sử dụng các tri thức khoa học - kỹ 
thuật và công nghệ để phát triển, hoàn thiện bản thân mình với tư cách là một lực 
lượng sản xuất. 
Trí tuệ nhân tạo dẫn được mệnh danh là thông minh đến mấy cũng chỉ là sản 
xuất của con người và hoạt động của nó luôn luôn phù hợp với những chương trình 
mà con người tạo lập và điều khiển. 
4. Con người là động lực, là mục đích, điều kiện đủ, 
là đối tượng thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội. 
Ai cũng biết Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là xu hướng của thế giới là con 
đường tất yếu của Việt Nam. Đó là điều kiện đẻ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - 
xã hội. Nhưng xã hội trước hết phải là của con người. Mọi lĩnh vực trong xã hội đều 
do con người tạo ra và vì con người. 
Mác đã từng viết rằng: trong yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất - người lao 
động là yếu tố quan trọng nhất, là lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại. 
Sự thành công trong Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đòi hỏi phải có các nguồn lực 
cần thiết: con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất - kỹ thuật, vị trí địa 
lý, và nguồn lực nước ngoài. Nhưng các nguồn lực khác chỉ trở thành nguồn lực 
quan trọng, cần thiết của sự phát triển khi nó được con người sử dụng đúng mục 
đích và có hiệu quả cao. Với xu hướng Quốc tế hoá đời sống kinh tế - xã hội, sự 
hợp tác và đầu tư của nước ngoài cũng là một nguồn lực quan trọng nhưng tác động 
của nó như thế nào còn tuỳ thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn lực đó. 
Nói tóm lại thiếu sự hiện diện của con người thì mọi tiềm năng sẽ không 
được khai thác, mọi nguồn lực sẽ trở nên vô nghĩa. 
Trong khi các nguồn lực khác đều có giới hạn, có những nguồn lực có thể bị 
khai thác cạn kiệt thì nguồn lực con người có thể xem là vô tận. Nó không chỉ tự 
sản sinh về mặt số lượng, sinh học mà còn tự đổi mới không ngừng, phát triển về 
chất. Nếu được chăm lo và bồi dưỡng một cách hợp lý - đó là cơ sở làm cho năng 
lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người phát triển tiến bộ trong quá 
trình tiến hoá nhân loại. 
Thứ ba, như ta đã đề cập, khoa học - kỹ thuật và công nghệ là lực lượng sản 
xuất trực tiếp, cơ bản trong quá trình sản xuất. Nhưng khoa học - kỹ thuật và công 
nghệ lại là sản phẩm của con người. Con người tạo ra nó, sử dụng nó. Sự phát triển 
của khoa học - kỹ thuật và công nghệ chính là sự phát triển trí tuệ con người thúc 
đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 
Thứ tư, quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá xã hội do con người tổ 
chức, thực hiện do đó phải có sự hiện diện của con người trong công tác quản lý 
nghĩa là phải dựa vào năng lực của con người. Quá trình Công nghiệp hoá - Hiện 
đại hoá sẽ không đạt được kết quả nếu năng lực của con người không đáp ứng đúng 
mức. 
5. Tính tất yếu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. 
a. Tất yếu khách quan 
Lịch sử nhân hơn 3 tỷ năm đã chứng tỏ xã hội phát triển từ thấp lên cao. Con 
người chỉ nhận biết chính xác lịch sử của mình khoảng 5 nghìn năm sau này nhưng 
hoạt động sản xuất hàng hoá chỉ xuất hiện cách đây khoảng 8 trăm năm. Tuy nhiên 
những cuộc biến đổi trong xã hội được coi là cách mạng thì chỉ diễn ra cách đây 2 
trăm năm, được xác định bằng cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất đó là 
quy luật của phát triển , tiến hoá. Do đó Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là tất yếu, 
là một bước phát triển tiếp theo của lịch sử. 
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã mở ra một thời đại mới - thời đại của 
văn minh trí tuệ. Khoa học kỹ thuật đã đi vào mọi lĩnh vực, mọi ngõ ngách của đời 
sống xã hội. Đấi sống kinh tế đang đi vào Quốc tế hoá toàn cầu đòi hỏi phân công 
lại lao động theo chiều sâu. Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là con đường tất yếu để 
phát triển kinh tế xã hội, hội nhập cùng thế giới. 
Hơn nữa, cùng với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và công nghệ, của trí tuệ 
con người quan hệ sản xuất cũng có những thay đổi lớn, Nó không chỉ thể hiện trên 
tầm Quốc tế cùng với sự thâm nhập của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã đi vào 
trong phạm vi quốc gia. Quy luật phù hợp của quan hệ sản xuất với quyết định, tính 
chất của lực lượng sản xuất đã tác trở lại lực lượng sản xuất thúc đẩy cả hai cùng 
phát triển. 
b. Tất yếu chủ quan. 
Trong bối cảnh Quốc tế hiện thời Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đang được 
coi là xu hướng phát triển chung của các nước đang phát triển. Đối với nước ta - 
một nước vẫn chưa thoát khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu và “nguy cơ tụt hậu” 
xa hơn so với các nước trong khu vực. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đang giảm 
bớt gánh nặng cho thế hệ mai sau và đền đáp công ơn những người đã hy sinh 
xương máu cho công cuộc giải phóng và bảo vệ tổ quốc. 
III. Nguồn lực con người trong sự nghiệp 
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá Việt Nam 
1. Mục tiêu Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đề ra. 
Trong cương lĩnh xây dựng đát nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - 
Đảng ta đã chỉ rõ: Phương hướng lớn của chình sách xã hội là: “Phát huy yếu tố con 
người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ, quyền lợi công dân. 
Kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời 
sống tinh thần, giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài, giữa 
cá nhân với tập thể, cộng đồng xã hội”. Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó là sự 
thể hiện tư tưởng vì con người có mục tiêu phát triển con người Việt Nam toàn diện 
trong sự nghiệp xây dựng đất nước theo quy định hướng xã hội chủ nghĩa. 
Đất nước trải qua hơn 10 năm đổi mới, phát triển trên con đường Công 
nghiệp hoá - Hiện đại hoá đã đạt được một số thành tựu lớn. Nền kinh tế đã và đang 
đạt mức tăng trưởng cao sánh cùng các nước trong khu vực. Đời sống người dân đã 
được cải thiện đáng kể cả về phương tiện vật chất lẫn tinh thần. Nói chung xã hội đã 
từng bước đi vào ổn định. Tuy nhiên cùng với những biến đổi, những thành tựu khả 
quan đó, sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá với những yêu cầu mới cùng 
đặt ra trước chúng ta nhiều vấn đề bức xúc trong lĩnh vức xã hội. 
Đại hội VIII của Đảng đã đánh giá lại và đề ra những yêu cầu mới “Xây 
dựng nước ta thành một nước Công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ 
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực 
lượng sản xuất. Đời sống vật chất và tinh thần cao. Quốc phòng, an ninh vững chắc, 
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh...” đó là “cuộc cách mạng” toàn 
diện và sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. 
 2. Con người-nguồn lực hàng đầu của Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá 
Như ta đã đề cập: sự thành công của quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại 
hoá đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định phải có các nguồn lực cần thiết: 
nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa 
lý và nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có quan hệ chặt chẽ với nhau cùng 
tham gia vào quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nhưng mức độ tác động và 
vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình đó không giống nhau. Trong đó nguồn 
lực con người là yếu tố quyết định. 
Để xem xét vai trò của nguồn lực con người cần đặt nó trong mối quan hệ so 
sánh với các nguồn lực khác và ở mức độ chi phôí của nó đến sự nghiệp Công 
nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Đồng thời phải đặt chúng trong bối cảnh hiện tại - khi 
cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ hiện đại phát triển mạnh mẽ, lao 
động trí tuệ ngày một tăng và đang trở thành xu thế của nhân loại. Công nghiệp hoá 
gắn liền với Hiện đại hoá mà thực chất là hiện đại hoá lực lượng sản xuất. Trong 
phạm vi phần này ta chit tiếp cận vai trò nguồn lực con người chung quy với tư 
cách là một lực lượng sản xuất. 
Vậy lực lượng sản xuất là gì ? Mác và Enghen cũng không đưa ra một khái 
niệm cụ thể - tuy nhiên đều thống nhất rằng đó là mối quan hệ giữa con người với 
tự nhiên trong quá trình sản xuất. Nó bao gồm con người và tư liệu sản xuất. Lực 
lượng sản xuất trước hết phải là con người với khả năng lao động, có trí tuệ, kỹ 
năng. Kỹ sảo để sản xuất. Thứ hai đó là tư liệu sản xuất gồm công cụ sản xuất và 
đối tượng sản xuất. Thứ ba, trong thời đại hiện nay, sự tác động mạnh mẽ của khoa 
học - kỹ thuật vào quá trình sản xuất đã làm giảm cường độ lao động, tăng năng 
suất cao. Khoa học - kỹ thuật cũng được coi là một lực lượng sản xuất trực tiếp. 
Khi phân tích về lực lượng sản xuất, Mác đã viết: “ Trong tất cả các lực 
lượng sản xuất - lực lượng sản xuất lớn nhất là bản thân giai cấp cách mạng” và 
Lênin cũng viết: “ lực lượng sản xuất hàng đầu của nhân loại là công nhân, là người 
lao động”. Còn Bác Hồ thì nhắc nhở: “ Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa trước hết 
phải có con người xã hội chủ nghĩa...” Rõ ràng các quan điểm đó đều khẳng định 
vai trò của con người trong lực lượng sản xuất. Bởi lẽ con người là lực lượng duy 
nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết lợi dụng các nguồn lực khác, gắn chúng lại 
với nhau tạo nên sức mạnh tổng hợp cùng tác động vào quá trình Công nghiệp hoá - 
Hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể, chịu sự cải tạo, khai thác của 
con người và hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích của con người nếu 
con người biết tác động và chi phối. Vì vậy trong các yếu tố cấu thành lực lượng 
sản xuất - con người là yếu tố quan trọng nhất, là lực lượng sản xuất hàng đầu của 
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. 
Thứ hai, nguồn lực con người với trí tuệ ngày càng phát triển, đổi mới đang 
từng bước làm chủ tự nhiên, ngày càng khám phá ra những tài nguyên thiên nhiên 
hoặc tạo ra những nguồn lực khác vốn không có sẵn trong thiên nhiên. Với bản chất 
hoạt động có mục đích và sáng tạo của mình, con người bằng trí tuệ của mình đã tạo 
ra các thế hệ công cụ sản xuất ngày càng hiện đại đưa xã hội loài người qua các nền 
văn minh từ thấp lên cao trong quá trình phát triển. 
Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật 
thể hoá, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C.Mác đã và 
đang trở thành hiện thực. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - 
kỹ thuật và công nghệ hiện đại đang dẫn các nền kinh tế của các nước công nghiệp 
phát triển vận động đến nền kinh tế của trí tuệ. Bằng những kỹ thuật hiện đại do 
chính con người làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần 
kỳ trong lịch sử. Vì thế mà Alvin Toffler đã xếp quyền lực trí tuệ lên hàng đầu 
trong những quyền lực đã có trong lịch sử. 
Thứ tư, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn nước ta cho thấy sự thành 
công của Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định 
đường lối chính sách cũng như là tổ chức thực hiện - nghĩa là phụ thuộc vào năng 
lực nhận thức vàhd thực tiễn của con người. Quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại