Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế
phản ánh trình độ phát triển cao của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó
tồn tại và phát triển chủ yếu ở các nước chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi
dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển
tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc
đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh
trong các nước tư bản phát triển.
Từ đại hội IV của Đảng ( năm 1986 ) đất nước ta thực hiện đường lối
đổi mới ,chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được
mục tiêu đã đề ra trong điều kiện kinh tế thị trường hơn 10 năm qua, đất nước
đã vượt qua bao khó khăn, thử thách giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên trong các
Văn kiện của Đảng tại đại hội lần thứ VII,VIII đã đề cập đến 4 nguy cơ thách
thức đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong đó “chệch
hướng xã hội chủ nghĩa” có thể coi là nguy cơ lớn nhất. Vì vậy khả năng định
hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường nước ta có trở thành hiện thực
hay không trước hết phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo kinh tế của Đảng và nhà
nước là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước
49 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3884 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề án kinh tế chính
trị
1
Luận văn:
“Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta”
Đề án kinh tế chính
trị
2
LỜI MỞ ĐẦU
Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế
phản ánh trình độ phát triển cao của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó
tồn tại và phát triển chủ yếu ở các nước chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi
dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển
tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc
đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh
trong các nước tư bản phát triển.
Từ đại hội IV của Đảng ( năm 1986 ) đất nước ta thực hiện đường lối
đổi mới ,chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt được
mục tiêu đã đề ra trong điều kiện kinh tế thị trường hơn 10 năm qua, đất nước
đã vượt qua bao khó khăn, thử thách giành được nhiều thành tựu trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên trong các
Văn kiện của Đảng tại đại hội lần thứ VII,VIII đã đề cập đến 4 nguy cơ thách
thức đối với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong đó “chệch
hướng xã hội chủ nghĩa” có thể coi là nguy cơ lớn nhất. Vì vậy khả năng định
hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường nước ta có trở thành hiện thực
hay không trước hết phụ thuộc vào vai trò lãnh đạo kinh tế của Đảng và nhà
nước là nhân tố quyết định nhất bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của
nền kinh tế thị trường cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước.
Ngày nay trong nền kinh tế thị trường hiện đại, với sư phát triển nhanh
chóng của khoa học - công nghệ, nếu không có sự can thiệp của nhà nước thì
không thể giải quyết được nhiều vấn đề kinh tế lớn có tầm cỡ quốc gia, quốc
tế . Vì thế kết hợp hài hoà giữa sự vận hành của cơ chế thị trường với sự điều
Đề án kinh tế chính
trị
3
tiết của nhà nước là cần thiết và là giải pháp mang lại thành công trên con
đường phát triển. Trong mối quan hệ đó, nhà nước giữ vai trò định hướng tạo
“hành lang “ pháp lý và môi trương đầu tư để các chủ thể có thể có thể phát
huy tính năng động, sáng tạo của mình.
Nhận thức được tầm quan trọng về vai trò của nhà nước trong nền kinh
tế thị trường nên em đã chọn đề tài “Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế
thị trường ở nước ta’’. Là một sinh viên năm thứ 2 nên tầm hiểu biết, nhận
thức và lý luận của em còn nhiều hạn chế . Bởi vậy em rất mong được sự giúp
đỡ của thầy để bài viết của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin cảm ơn thầy giáo TS Tô Đức Hạnh đã giúp đỡ em hoàn thành
bài viết này.
PHẦN I
NHỮNG LÝ LUẬN VỀ
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Đề án kinh tế chính
trị
4
Đề án kinh tế chính
trị
5
A . KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. NHỮNG LÝ LUẬN VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm và đặc điểm
KTTT là nền kinh tế hàng hoá phát triển ở trình độ cao, là một hình thức tổ
chức sản xuất xã hội hiệu quả nhất phù hợp với trình độ phát triển của xã hội
hiện nay. Các đặc điểm chính của KTTT:
-Các chủ thể kinh tế có tính tự chủ cao. Mỗi chủ thể kinh tế là một
thành phần của nền kinh tế có quan hệ độc lập với nhau, mỗi chủ thể tự quyết
định lấy hoạt động của mình.
-Tính phong phú của hàng hóa. Do các chủ thể kinh tế đều tự quyết
định lấy hoạt động của mình nên bất cứ hàng hoá nào có nhu cầu thì sẽ có
người sản xuất. Mà nhu cầu của con người thì vô cùng phong phú, điều này
tạo nên sự phong phú của hàng hoá trong nền KTTT .
-Cạnh tranh là tất yếu trong KTTT .Hàng hoá nào có nhu cầu lớn thí sẽ
có nhiều người sản xuất. Khi có quá nhiều người cùng sản xuất một mặt hàng
thì sự cạnh tranh là tất yếu.
-KTTT là một hệ thống kinh tế mở, trong đó có sự giao lưu rộng rãi
không chỉ trong thị trường một nước màgiữa các thị trường với nhau.
-Giá cả hình thành ngay trên thị trường. Không một chủ thể kinh tế nào
quyết định được giá cả. Giá của một mặt hàng được quyết định bởi cung và
cầu của thị trường.
Nền KTTT có thể tự hoạt động được là nhờ vào sự điều tiết của cơ chế
thị trường. Đó là các quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá trị, quy luật
Đề án kinh tế chính
trị
6
cung cầu, lưu thông tiền tệ, cạnh tranh…tác động, phối hợp hoạt động của
toàn bộ thị trường thành một hệ thống thống nhất.
2. Ưu và nhược điểm của nền kinh tế thị trường
a. Ưu điểm
Kinh tế thị trường thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển tạo ra sự cạnh
tranh gắt gao giữa các nhà sản xuất. Người tiêu dùng được thoả mãn nhu cầu
cũng như đáp ứng được đầy đủ mọi chủng loại hàng hoá và dịch vụ.
Phân công lao động ngày càng xã hội hoá cao. Mở rộng quan hệ nhiều
loại thị trường từ thị trường địa phương, thị trường dân tộc và khu vực, thi
trường quốc tế.
Tạo xu thế liên doanh, liên kết đẩy mạnh giao lưu kinh tế, các nước
đang phát triển có cơ hội được tiếp xúc được chuyển giao công nghệ sản xuất,
công nghệ quản lý từ các nước phát triển để thúc đẩy công cuộc xây dựng và
phát triển kinh tế ở nước mình
Kinh tế thị trường góp phần thúc đẩy giao lưu giữa các nước dưới sự
thể hiện qua cac sản phẩm dịch vụ mang bản sắc riêng của từng dân tộc, từng
địa phương, từng quốc gia.
b. Nhược điểm
Kinh tế thị trường phát triển tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần
kinh tế phát triển, lúc đó vai trò của kinh tế nhà nước bị giảm sút và chịu sức
ép mạnh mẽ tư các thành phần kinh tế khác.
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh trạnh gắt gao giã các nhà sản
xuất, các nhà phân phối dẫn đến thất nghiệp tăng cao hoạt động phúc lợi xã
hội bị giảm sút.
Đề án kinh tế chính
trị
7
Nền kinh tế thị trường do các nhà sản xuất hàng hoá dịch vụ chạy theo
lợi nhuận gây ra hậu quả về môi trường sinh thái làm giảm tốc độ tăng trưởng
bền vững của quốc gia.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường đem lại là các tệ nạn xã hội mới nảy
sinh cang ngày càng gia tăng.
Nề kinh tế thị trường với bản chất của nó là lợi nhận tối đa thì việc cần
định hướng cho các thành phần kinh tế là rất quan trọng, nếu không sẽ có
nguy cơ đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa đối lập với bản chất của nhà nước
ta.
II. CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1. Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường có một loạt những quy luật kinh tế vốn có
của nó như quy luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh tranh,v.v…Các
quy luật đó đều biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua giá cả thị trường.
Nhờ sự vận động giá cả thị trường mà diễn ra một sự thích ứng một các tự
phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất ( tổng cung ) với khối lượng và
cơ cấu của sản xuất (tổng cung ), tức là sự hoạt động của các quy luật đó đã
điều tiết nền sản xuất xã hội.
Vậy: cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết của nề kinh tế thị trường
do sự tác động của các quy luật vốn có của nó. Nói một cách cụ thể hơn, cơ
chế thị trường là hệ thống hữu cơ của sự thích ứng lẫn nhau, tự đIều tiết lẫn
nhau của các yếu tố giá cả, cung – cầu, cạnh tranh …trực tiếp phát huy tác
dụng trên thị trường để điều tiết nền kinh tế thị trường.
Cơ chế thị trường là một bộ máy tinh vi để phối hợp một cách không tự
giác hoạt động của người tiêu dùng với các nhà sản xuất. Cơ chế thị trường tự
Đề án kinh tế chính
trị
8
phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường phát sinh
và phát triển cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường, ở đâu có sản xuất
và trao đổi hàng hoá thì ở đó có thị trường và do đó coá cơ chế thị trường hoạt
động.
2. Ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường
a. Ưu điểm của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường có những ưu điểm và tác dụng mà không có cơ chế
nào hoàn toàn thay thế được.
Thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và
tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế
phát triển năng động, có hiệu quả.
Thứ hai,sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự
phát giã khối lượng và cơ cấu của sản suất ( tổng cung )với khối lượng và cơ
cấu nhu cầu của xã hội ( tổng cầu ). Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu
tiêu dùng cá nhân về hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để
Nhà nước làm sẽ phải thực hiên một số công việc rất lớn, có khi không thực
hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong quá trình ra các quyết định.
Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kĩ thuật, hợp lý hoá sản
xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản
xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng những phương pháp sản
xuất tốt nhất như không ngừng đổi mới kỹ thuật công nghệ sản xuất, đổi mới
sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả.
Thứ tư, cơ chế thị trường thự hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một
cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển, phân phối
các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thi trường; chúng sẽ
Đề án kinh tế chính
trị
9
chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lự kinh
tế được phân bố một cách tối ưu.
Thứ năm, sự điều tiết của của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều
chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước, những
điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu
cầu xã hội.
Nhờ những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế thị trường có thể giải quyết
được những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt nhất điều tiết
nền sản xuất xã hội.Tuy nhiên, “sự thành công” của cơ chế đó là có điều
kiện: Các yếu tố sản xuất được lưu động, di chuyển dễ dàng, giá cả thị trường
có tính linh hoạt thông tin thị trường phải nhạy, và các chủ thể thị trường phải
nắm được đầy đủ thông tin liên quan.
Đề án kinh tế chính
trị
10
b. Những khuyết tật của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường, tuy
nhiên cơ chế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có của nó.
Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của
cạnh tranh hoàn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo, thì hiệu lực
của cơ chế thị trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc
quyền có thể giảm sản lượng, tăng giá để thu lợi nhận cao, mặt khác, khi xuất
hiện độc quyền thì không có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kĩ
thuật.
Thứ ba, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi ích tối đa, vì
vậy họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường sống
của con người, do đó hiệu quả kinh tế – xã hội không được đảm bảo.
Thứ ba, phân phối thu nhập không công bằng, có những mục tiêu xã
hội chủ nghĩa dù cơ chế thị trường có hoat động trôi trảy thì cũng không đạt
được. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo,
phân cực về của cải, tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế
cao, nhưng nó không tự động mang lại những giá trị mà xã hội muốn vươn
tới. Edgar Morin đã nhận xét chua chát: “Trong các nền văn minh được gọi là
phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn
hoá, trí não, tình người ”.
Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó
tránh khỏi những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất
nghiệp. Người ta nhận thấy rằng, một nề kinh tế thị trường hiện đại đưng
trước một khó khăn nan giải của kinh tế vĩ mô: không một nước nào trong
một thời gian dài lại có được lạm phát thấp và đầy đủ công ăn việc làm.
Đề án kinh tế chính
trị
11
Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên
trong thực tế không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can
thiệp của nhà nước để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường, khi đó
nền kinh tế, như người ta thường gọi, gọi là nền kinh tế hỗn hợp.
B . KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM
I . Vì sao Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ?
Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế
phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến
nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết
định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản . Chủ nghĩa tư bản đã biết
lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát
triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiém lợi nhuận, và một cách khách quan nó
thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển cao và phồn thịnh
trong các nước tư bản phát triển.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng.
Bên cạnh mặt tích cực nó còn mặt trái, có khuyết tật từ trong bản chất của nó
do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chi phối. Cùng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, càng ngày mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc
lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, làm tăng thêm tính bất
công và bất ổn xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người
ngèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, nó còn rằng buộc
các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột theo quan hệ
”trung tâm – ngoại vi”. Có thể nói , nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa
toàn cầu ngày nay là sự thống trị của một số ít nước lớn hay một số tập đoàn
Đề án kinh tế chính
trị
12
xuyên quốc gia đối với đa số các nước ngèo, làm tăng thêm mâu thuẫn giữa
các nước giàu và nước nghèo .
Chính vì thế như mà, như C.Mac đã phân tích và dự báo,chủ nghĩa tư
bản tất yếu phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn
mới văn minh hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đã và đang tìm
mọi cách để tư điều chỉnh, tự thích nghi băng cách phát triển “ nền kinh tế thị
trường hiện đại ”,” nền kinh tế thị trường xã hội “, tạo ra ”chủ nghĩa tư bản xã
hội ”, “ chủ nghĩa tư bản nhân dân ”,” nhà nước phúc lợi chung ” …, tức là
phảI có sư can thiệp trực tiếp của nhà nứơc và cũng phải chăm lo vấn đề xã
hội nhiều hơn, nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó, chủ nghĩa tư bản
không thể tự giải quyết được, có chăng nó chỉ tạm thời xoa dịu được chừng
nào mâu thuẫn mà thôi. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa hiện đại đang
nghày càng thể hiện xu hướng tự phủ định và tự tiến hoá để chuẩn bị chuyển
sang giai đoạn hậu công nghiệp, theo xu hướng xã hội hoá. Đây là tất yếu
khách quan, là quy luật phát triển của xã hội. Nhân loại muốn tiến lên, xã hội
muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường chủ
nghĩa tư bản.
Mô hinh chủ nghĩa xã hội kiểu Xô - viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ
chưc kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản,
muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức
sản xuất văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp,
và trên thực tế suốt hơn 70 tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã
đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời
sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật
(muốn xoá bỏ ngay kinh tế hàng hoá, áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thi
trường),không năng động,kịp thời đIều chỉnh khi cần thết cho nên rút cuộc đã
không thành công.
Đề án kinh tế chính
trị
13
Thực ra, khi mói vận dụng học thuyết Mác vào xây dưng chủ nghĩa xã
hôI ỏ nuớc Nga sau Cách mạng Tháng Mười. V.I.Le-nin cung đã từng chủ
trương không áp dụng kinh tế thị trường mà thực hiện “ chính sách cộng sản
thời chiến ” . Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, Người đã phát hiện ra sai
lầm, khắc phục sự nóng vội bằng cách đưa ra thực hiên “ chính sách kinh tế
mới”(NEP) mà nội dung cơ bản của nó là khuyến khích phát triển kinh tế
hàng hoá, chấp nhận ở mức độ cơ chế thị trường. Theo V.I.Le-nin,để xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước còn tương đối lạc hậu về kinh tế như ở
nước Nga, cần phải sử dụng quan hệ hàng hoá - tền tệ và phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần, đặc biệt là sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để
phát triển lực lượng sản xuất. Tuy chỉ mới thực hiện trong thời gian ngắn
nhưng NEP đẵ đem lại những kết quả tích cực cho nước Nga: hồi phục và
phát triển nền kinh tế bị triến tranh tàn phá, nhiều ngành kinh tế bắt đầu hoạt
động năng động, nhộn nhịp hơn. Tiếc rằng tư tưởng của V.I.Le-nin về xây
dựng chủ nghĩa xã hội với chính sách NEP đã không được tiếp tục thực hiên
sau khi Người qua đời.Sự thành công và phát triển mạnh mẽ suốt một thời
gian khá dài của Liên Xô trong công cuộc công nghiệp hoá đất nước bằng mô
hình kinh tế dư trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, kế hoach hoá tập
trung cao độ; phân phối thu nhập mang tính bình quân; kinh tế hàng hoá kinh
tế thị trường bị loại bỏ đã có sức hấp dẫn hơn đối với nhân loại và làm cho
giới lý luận kinh tế các nước xã hội chủ nghĩa và các nước phát triển tuyệt đối
hoá,biến thành công thức để áp dụng cho tất cả các nước đi theo con đường xã
hôị chủ nghĩa.
Cũng cần nói thêm rằng, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
giới lý luận ở một số nước cũng cảm thấy có cái gì “ chưa ổn ” , cũng đă đưa
ra những kiến nghị, những đề xuất, đại loại như quan điểm “chủ nghĩa xã hội
thị trường ”,… nhưng không được chấp nhận.
Đề án kinh tế chính
trị
14
Vào cuối nhưng năm 70 của thế kỷ XX, những hạn chế khuyết tật của
mô hình kinh tế Xô-viết đã bộc lộ ra rất rõ cộng vói sự yếu kém trong công
tác lãnh đạo, quản lý lúc bấy giờ đã làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu rơI vào tình trang trì trệ, khung hoảng.
Một số người lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước Liên Xô lúc đó muốn
thay đổi tình hình bằng công cuộc cải cách, cải tổ, nhưng với một “ tư duy
chính trị mới ”, họ đã pham sai lầm nghiêm trọng cực đoan phiến diện ( ở đây
chưa nói đến sự phản bội lý tưởng xã hội chủ nghĩa của họ và sự phá hoại
thâm hiểm của các thế lực thù địch ), dẫn tới sự tan giã của Liên Xô và sự sụp
đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa khác ở đông Âu vào cuối những năm 80, dâu những năm 90
của thế kỷ XX dã làm lộ rõ những khuyết tật của mô hinh kinh tế cưng nhă
phi thị trường, mặc dù những khuyết tật đó không phảI là nguyên nhân tất yếu
dẫn đến sự sụp đổ.
Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội
còn thấp, lại bị triến tranh tàn phá nặng nề . Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục
tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khat vọng
ngàn đồi thiêng liêng của dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội
bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn cực kì hệ trọng, muốn trả lời thật không
đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác Viêt
Nam cũng áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế
hoạch hoá tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết
quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của đất nước thời kỳ có chiến
tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ nhiều khuyết đểm và trong công tác
chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai
lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ hanh động đơn giả
nóng vội không tôn trọng quy luật khách quan, nhạn thức về chủ nghĩa xã hội
không đúng với thực tế Việt Nam.
Đề án kinh tế chính
trị
15
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của đảng cộng
sản Việt Nam (tháng 12-1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước
nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại
hội đưa ra những q