Trong những cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát là cơ quan có vai trò rất quan trọng, đảm bảo việc khởi tố bị can được đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Viện kiểm sát không chỉ là cơ quan có quyền trực tiếp quyết định khởi tố bị can mà còn có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền khác. Vì vậy, vai trò của Viện kiểm sát có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của việc quyết định khởi tố bị can.
Qua thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thời gian gần đây cho thấy, mặc dù pháp luật tố tụng hình sự đã có những qui định khá đầy đủ về quyết định khởi tố bị can, song trong quá trình thực hiện các qui định của luật vẫn còn một số bất cập, đặc biệt là những quy định liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng những qui định này. Về nguyên tắc, mọi tội phạm và người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đều phải bị xử lí về hình sự. Nhưng việc xử lí làm sao để đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh việc oan, sai là điều hết sức cần thiết. Hiến pháp năm 1992 của chúng ta qui định về quyền cơ bản của công dân, Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã qui định về tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, Viện kiểm sát nói riêng vẫn còn để xảy ra tình trạng oan, sai. Việc oan, sai này xảy ra ở những giai đoạn khác nhau và trong những biện pháp tố tụng khác nhau, có thể từ khi bắt đầu các thủ tục tố tụng như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đến giai đoạn truy tố, xét xử. Chính vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận định trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, đã nhận định về chất lượng công tác tư pháp: “ nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cơ quan tư pháp”. Những tồn tại và hạn chế này xuất phát từ nhiều những nguyên nhân khác nhau, từ nguyên nhân chủ quan đến nguyên nhân khách quan. Đồng thời, Nghị quyết cũng đã xác định một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó xác định: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lí kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ.”
Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/6/2005, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết đã có những vấn đề liên quan đến trách nhiệm và vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, đó là “ Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”.
Theo đó, Viện kiểm sát tập trung vào chức năng công tố, tăng cường hơn nữa vai trò đối với hoạt động điều tra, trong đó có hoạt động phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với việc khởi tố bị can của Cơ quan điều tra.
Trước thực trạng đó, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, không chỉ dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà phải kết hợp với đánh giá thực tiễn hoạt động khởi tố bị can của Viện kiểm sát trong những năm gần đây, nhất là từ khi thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, từ đó tìm ra những tồn tại, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Đây là lý do tác giả chọn “Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học.
71 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2662 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành là kết quả của sự nỗ lực và cố gắng của bản thân tác giả; sự quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình của người hướng dẫn nghiên cứu khoa học; của các cán bộ, Giảng viên Trường Đại học Luật Hà Nội và các nhà khoa học khác; sự tạo điều kiện học tập, nghiên cứu của ngành Kiểm sát nhân dân nói chung, của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Phú Thọ nói riêng. Tác giả chân thành cảm ơn những cơ quan, tổ chức, cá nhân đã giúp đỡ tác giả hoàn thành Luận văn này. Tác giả tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn nữa về đề tài.
Tác giả
Nguyễn Huy Khánh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát là cơ quan có vai trò rất quan trọng, đảm bảo việc khởi tố bị can được đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Viện kiểm sát không chỉ là cơ quan có quyền trực tiếp quyết định khởi tố bị can mà còn có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc khởi tố bị can của cơ quan có thẩm quyền khác. Vì vậy, vai trò của Viện kiểm sát có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả của việc quyết định khởi tố bị can.
Qua thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thời gian gần đây cho thấy, mặc dù pháp luật tố tụng hình sự đã có những qui định khá đầy đủ về quyết định khởi tố bị can, song trong quá trình thực hiện các qui định của luật vẫn còn một số bất cập, đặc biệt là những quy định liên quan đến vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng những qui định này. Về nguyên tắc, mọi tội phạm và người thực hiện hành vi bị coi là tội phạm đều phải bị xử lí về hình sự. Nhưng việc xử lí làm sao để đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh việc oan, sai là điều hết sức cần thiết. Hiến pháp năm 1992 của chúng ta qui định về quyền cơ bản của công dân, Điều 4 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 đã qui định về tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện việc khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các vụ án hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, Viện kiểm sát nói riêng vẫn còn để xảy ra tình trạng oan, sai. Việc oan, sai này xảy ra ở những giai đoạn khác nhau và trong những biện pháp tố tụng khác nhau, có thể từ khi bắt đầu các thủ tục tố tụng như khởi tố vụ án, khởi tố bị can, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, đến giai đoạn truy tố, xét xử. Chính vì vậy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhận định trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, đã nhận định về chất lượng công tác tư pháp: “… nói chung chưa ngang tầm với yêu cầu và đòi hỏi của nhân dân; còn nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, vi phạm các quyền tự do, dân chủ của công dân, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cơ quan tư pháp”. Những tồn tại và hạn chế này xuất phát từ nhiều những nguyên nhân khác nhau, từ nguyên nhân chủ quan đến nguyên nhân khách quan. Đồng thời, Nghị quyết cũng đã xác định một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, trong đó xác định: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lí kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ.”
Để tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/6/2005, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết đã có những vấn đề liên quan đến trách nhiệm và vai trò của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra, đó là “… Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành Viện Công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”.
Theo đó, Viện kiểm sát tập trung vào chức năng công tố, tăng cường hơn nữa vai trò đối với hoạt động điều tra, trong đó có hoạt động phê chuẩn quyết định khởi tố bị can và kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với việc khởi tố bị can của Cơ quan điều tra.
Trước thực trạng đó, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, không chỉ dựa trên cơ sở những quy định của pháp luật tố tụng hình sự mà phải kết hợp với đánh giá thực tiễn hoạt động khởi tố bị can của Viện kiểm sát trong những năm gần đây, nhất là từ khi thực hiện Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, từ đó tìm ra những tồn tại, nguyên nhân và đề xuất các giải pháp khắc phục, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Đây là lý do tác giả chọn “Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ trước đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu thể hiện dưới dạng các bài viết đăng trên các tạp chí về chức năng của Viện kiểm sát, về khởi tố bị can. Có thể nêu ra một số bài viết như: Một số vấn đề lí luận, thực tiễn về khởi tố bị can (Tạp chí toà án- Toà án nhân dân tối cao, số 7/2006, tr.22-24); Áp dụng các qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự về việc quyết định khởi tố bị can, thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 02/2007, tr.22-26, 46) của Tiến sĩ Trần Quang Tiệp; Từ thực tiễn một năm thực hiện qui định tại Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về việc phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 4/2006, tr. 44-47) của Hương Nhung; Một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc khởi tố vụ án hình sự và việc kiểm sát việc khởi tố vụ án (Tạp chí Kiểm sát- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 02/2007, tr. 6-11) của Tiến sĩ Phạm Mạnh Hùng; Một số vấn đề về khởi tố bị can và phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát- Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, số 02/2007, tr. 18-21) của Tiến sĩ Đỗ Văn Đương; Cần sửa đổi, bổ sung một số qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự về khởi tố bị can, thay đổi, bổ sung quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can (Tạp chí Kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số 23/2008, tr.13-17) của Nguyễn Tiến Sơn; Bàn về thẩm quyền của Viện kiểm sát trong việc quyết định khởi tố bị can (Tạp chí kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao, số Tân Xuân (02)/2009, tr. 35-38) của Nguyễn Ngọc Khánh...
Ngoài ra, khởi tố bị can còn được thể hiện dưới hình thức là một số mục nhỏ trong các công trình nghiên cứu như: Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội (2005), tr 62, của Tập thể tác giả: Tiến sĩ Lê Hữu Thể (Chủ biên), Tiến sĩ Đỗ Văn Đương, Nông Xuân Trường; Quyền công tố ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội (2002), tr47-48, của Lê Thị Tuyết Hoa.
Những bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên chỉ đề cập đến khởi tố bị can với tư cách là một hoạt động trong tổng thể các hoạt động tố tụng hình sự hoặc nghiên cứu với tư cách đó là một phương diện (mặt) hoạt động chủ yếu để làm sáng tỏ chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự mà chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu vấn đề này trong và trên cơ sở mối liên hệ với vai trò của Viện kiểm sát.
Xuất phát từ tình hình nghiên cứu như trên cho thấy, cần phải có sự nghiên cứu việc khởi tố bị can một cách độc lập, phân tích việc áp dụng qui định này trong mối liên hệ với vai trò của Viện kiểm sát, đánh giá việc thực hiện ở những góc độ khác nhau để phát huy những ưu điểm và khắc phục những hạn chế trong thực tiễn áp dụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lí luận, qui định của pháp luật tố tụng hình sự, kết hợp với đánh giá thực tiễn áp dụng qui định về khởi tố bị can trong thời gian gần đây, Luận văn nhằm mục đích làm sáng tỏ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về khởi tố bị can, đặc biệt là các qui định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Ngoài ra, tác giả còn phân tích những nguyên nhân hạn chế vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng qui định về khởi tố bị can, từ đó mạnh dạn đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, đặc biệt là các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về khởi tố bị can và một số giải pháp khắc phục các nguyên nhân chủ quan, khách quan khác ảnh hưởng đến thực tiễn áp dụng qui định về khởi tố bị can, góp phần nâng cao hơn nữa vai trò của Viện kiểm sát trong việc áp dụng qui định này.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu và phù hợp với phạm vi nghiên cứu của Luận văn, tác giả đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu một số vấn đề lí luận về khởi tố bị can: khái niệm, mục đích, ý nghĩa của việc khởi tố bị can; Nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành, thể hiện vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
- Đánh giá thực tiễn hoạt động kiểm sát việc khởi tố bị can trong 6 năm trở lại đây (từ năm 2005 đến 2010), tìm ra những nguyên nhân hạn chế vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
- Trên cơ sở những nguyên nhân đó, tác giả đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, khắc phục những hạn chế trong thực tiễn áp dụng, nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc khởi tố bị can nói chung, vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là một số vấn đề về lí luận, các qui định của pháp luật và thực tiễn thực hiện các qui định của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
Do thời gian và khuôn khổ có hạn, Luận văn chỉ tập trung vào việc nghiên cứu vấn đề:
- Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can theo qui định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam (theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 và một số văn bản có liên quan).
- Những hạn chế trong việc thực hiện những qui định của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát nói chung (gồm cả Viện kiểm sát nhân dân và Viện kiểm sát quân sự) đối với việc khởi tố bị can.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như: Thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, dựa trên các quy phạm pháp luật hiện hành, các tài liệu, sách báo liên quan, các bài viết của các tác giả đã nghiên cứu trước đó, kết hợp với đánh giá thực tiễn áp dụng để hoàn thành Luận văn này một cách có chất lượng.
6. Đóng góp mới của Luận văn
- Điểm mới của Luận văn là làm rõ một số vấn đề lí luận và thực tiễn của việc khởi tố bị can, nghiên cứu khởi tố bị can một cách độc lập với nghĩa là một việc mà không phải là một hoạt động, đặc biệt chú trọng đến những quy định về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can. Đây là một hướng nghiên cứu hoàn toàn mới, Tác giả hy vọng bằng việc đánh giá những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về khởi tố bị can, xoay quanh vai trò của Viện kiểm sát, sẽ tạo ra được một cách nhìn mới về vấn đề này.
- Phát hiện được một số vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật Tố tụng hình sự về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
- Đề xuất sửa đổi, bổ sung một số qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
7. Ý nghĩa của Luận văn
Đây là công trình nghiên cứu về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can, góp phần làm giàu thêm kiến thức trong pháp luật Tố tụng hình sự, góp phần trong đấu tranh, phòng, chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy, nghiên cứu trong các trường đào tạo về pháp luật và cũng là tài liệu để những người tiến hành tố tụng trong Tố tụng hình sự vận dụng vào thực tiễn công tác.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, phần nội dung chính của Luận văn bao gồm 03 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lí luận về vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
- Chương 2: Qui định của pháp luật và thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
- Chương 3: Một số giải pháp, kiến nghị góp phần nâng cao vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
ĐỐI VỚI VIỆC KHỞI TỐ BỊ CAN
1.1. Đấu tranh, phòng, chống tội phạm và vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can
1.1.1. Đấu tranh, phòng, chống tội phạm
Đấu tranh, phòng, chống tội phạm là hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và của mọi công dân, áp dụng tổng hợp và đồng bộ các biện pháp khác nhau nhằm thủ tiêu và loại bỏ những hành vi nguy hiểm cho xã hội ở mức độ đáng kể bị coi là tội phạm, hướng tới thủ tiêu những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, cũng như những yếu tố tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành tội phạm, hạn chế, đẩy lùi và tiến tới loại bỏ tội phạm khỏi đời sống xã hội.
Để thực hiện nhiệm vụ duy trì và bảo vệ chế độ, trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức, nhằm mục đích chính là “vì dân”, tất cả vì cuộc sống bình yên của nhân dân, Nhà nước dùng nhiều biện pháp vừa có tính thuyết phục, giáo dục, vừa có tính cưỡng chế, trong đó có biện pháp mạnh mẽ và nghiêm khắc nhất, đó là biện pháp hình sự. Biện pháp hình sự áp dụng với những vi phạm mang tính nguy hiểm cao đối với xã hội- tội phạm. Đấu tranh, phòng, chống tội phạm là trách nhiệm và nghĩa vụ của nhiều chủ thể. Theo qui định của pháp luật thì chủ thể phòng, chống tội phạm bao gồm tất cả các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và mọi công dân. Điều 12 Hiến pháp 1992 đã qui định: “Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.”
Từ đó có thể thấy, đấu tranh, phòng, chống tội phạm có ý nghĩa sau:
- Thứ nhất, là hoạt động để thực hiện đúng và nghiêm chỉnh các Nghị quyết của Đảng cũng như các văn bản của Nhà nước trên thực tế, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, vì sự bình yên của xã hội. Bên cạnh đó là để phục vụ việc nghiên cứu khoa học, triển khai các kết quả nghiên cứu vào trong thực tế trong công tác đấu tranh, phòng, chống tội phạm.
- Thứ hai, đấu tranh, phòng, chống tội phạm có vai trò không những hướng vào trực tiếp thủ tiêu tội phạm mà còn thủ tiêu các nguyên nhân làm phát sinh tội phạm cũng như những hiện tượng, tác nhân tiêu cực ảnh hưởng đến quá trình hình thành phẩm chất cá nhân của con người.
- Ba là, đấu tranh, phòng, chống tội phạm góp phần quan trọng trong việc bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và trật tự pháp luật, qua đó góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Về nguyên tắc, mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lí theo pháp luật. Mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra và xử lí kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội.
1.1.2. Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can
Vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự nói chung, trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra nói riêng được thể hiện cụ thể và khá đầy đủ qua các qui định của pháp luật về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống cơ quan này. Để làm rõ được vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động khởi tố bị can, trước hết cần phải tìm hiểu các qui định của pháp luật về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát theo qui định của pháp luật.
1.1.2.1. Vị trí, chức năng của Viện kiểm sát
Theo Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi) và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng, Viện trưởng, Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng (Điều 33 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003). Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự qui định để loại trừ các vi phạm pháp luật của những cơ quan và cá nhân này. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lí kịp thời, việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, làm oan người vô tội (Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003).
Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án (Điều 12 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và Điều 23 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003). Qua các qui định của pháp luật cho thấy, Viện kiểm sát giữ vai trò chủ đạo, quyết định trong các hoạt động tố tụng ở giai đoạn điều tra. Viện kiểm sát có quyền nhưng đồng thời có trách nhiệm bằng các biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự qui định nhằm bảo đảm cho việc điều tra, truy tố được kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, bảo đảm cho hoạt động điều tra được tiến hành đúng qui định của pháp luật. Trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát luôn giữ vai trò chủ động, tích cực trong việc phối hợp với Cơ quan điều tra.
Trong những năm gần đây, trước tình hình tội phạm ngày càng có chiều hướng gia tăng, diễn biến và tính chất phức tạp, đòi hỏi công tác tư pháp phải có những chuyển biến tích cực, đáp ứng kịp thời các yêu cầu của cuộc đấu tranh, phòng, chống tội phạm. Riêng với Viện kiểm sát, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị nêu rõ “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, xử lí kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ.” Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2009 cũng qui định trách nhiệm bồi thường khá nặng nề đối với Viện kiểm sát khi người bị khởi tố, truy tố oan, sai.
1.1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát đối với việc khởi tố bị can
Theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn: Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; … quyết định phê chuẩn, quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra; Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra;… Quyết định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án (Điều 112 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003).
Khi tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giai đoạn đi