Thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945), Việt Nam được xếp là một trong những
quốc gia có nền kinh tế phát triển thấp kém nhất trên thế giới, đó là một nền kinh
tế què quặt, lạc hậu, sản xuất nhỏ, lẻ, và nông nghiệp là chủ yếu. Nhưng ở thời kỳ
này, với sự xuất hiện của các nhà tư bản Pháp, các Công ty của Pháp, cùng với sự
giao lưu hàng hoá giữa nước Việt Nam thuộc địa với các nước khác thì nền kinh
tế Việt Nam cũng đã được coi là một nền kinh tế hàng hoá ở dạng sơ khai.
Cách mạng Tháng 8 (8/1945) thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà ra đời, nhưng không giống các quốc gia khác chúng ta không có điều
kiện để khôi phục và xây dựng kinh tế mà gần như ngay lập tức chúng ta lại phải
chịu đựng cảnh chiến tranh. Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1946 - 1954) nền kinh tế của chúng ta không thể phát triển một cách
toàn diện, mà đó chỉ là một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp, lấy sản xuất
nông nghiệp và thủ công nghiệp là chính với mục đích trước tiên là phục vụ
kháng chiến. Hiệp định Giơ nevơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được
ký kết, nhưng tưởng chúng ta được sống trong hoà bình để phát triển kinh tế,
nhưng không chúng ta lại phải trải qua một cuộc chiến tranh dài 20 năm (1955-1975) đất nước bị chia cắt làm hai miền Bắc, Nam với hai chế độ chính trị, hai
mô hình kinh tế khác nhau. Miền Bắc đi lên xã hội chủ nghĩa với mô hình kinh tế
quản lý tập trung bao cấp bao cấp giống các nước xã hội chủ nghĩa khác, miền
Nam đi theo mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
25 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1850 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vai trò kinh tế của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước ở Việt Nam
Phần I
Giới thiệu
Thời kỳ Pháp thuộc (1858 - 1945), Việt Nam được xếp là một trong những
quốc gia có nền kinh tế phát triển thấp kém nhất trên thế giới, đó là một nền kinh
tế què quặt, lạc hậu, sản xuất nhỏ, lẻ, và nông nghiệp là chủ yếu. Nhưng ở thời kỳ
này, với sự xuất hiện của các nhà tư bản Pháp, các Công ty của Pháp, cùng với sự
giao lưu hàng hoá giữa nước Việt Nam thuộc địa với các nước khác thì nền kinh
tế Việt Nam cũng đã được coi là một nền kinh tế hàng hoá ở dạng sơ khai.
Cách mạng Tháng 8 (8/1945) thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
cộng hoà ra đời, nhưng không giống các quốc gia khác chúng ta không có điều
kiện để khôi phục và xây dựng kinh tế mà gần như ngay lập tức chúng ta lại phải
chịu đựng cảnh chiến tranh. Trong suốt thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1946 - 1954) nền kinh tế của chúng ta không thể phát triển một cách
toàn diện, mà đó chỉ là một nền kinh tế khép kín, tự cung, tự cấp, lấy sản xuất
nông nghiệp và thủ công nghiệp là chính với mục đích trước tiên là phục vụ
kháng chiến. Hiệp định Giơ nevơ về chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương được
ký kết, nhưng tưởng chúng ta được sống trong hoà bình để phát triển kinh tế,
nhưng không chúng ta lại phải trải qua một cuộc chiến tranh dài 20 năm (1955-
1975) đất nước bị chia cắt làm hai miền Bắc, Nam với hai chế độ chính trị, hai
mô hình kinh tế khác nhau. Miền Bắc đi lên xã hội chủ nghĩa với mô hình kinh tế
quản lý tập trung bao cấp bao cấp giống các nước xã hội chủ nghĩa khác, miền
Nam đi theo mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Tuy vậy trong điều kiện
bị chi phối bởi qui luật của chiến tranh hai mô hình này cũng không mang đầy đủ
đặc trưng và ý nghĩa của nó. ở miền Bắc chúng ta không thể tập trung toàn bộ sức
lực cho phát triển kinh tế mà chúng ta phải chi viện lớn về người và của cho miền
Nam, hơn nữa miền Bắc cũng phải chịu sự tấn công bằng hải quân và không quân
Mỹ, trong điều kiện khó khăn đó quá trình thực hiện mục tiêu kinh tế nhiều khi
không được thực hiện đẩy đủ và đúng đắn. Còn ở miền Nam thì đây cũng chưa
thực sự là một nền kinh tế thị trường phát triển vì sức sản xuất trong nước còn rất
yếu, thực chất miền Nam chỉ là thị trường tiêu thụ hàng hoá của Mỹ và các nước
ta bản khác.
Sau chiến thắng (1975), nước nhà thống nhất cả nước bắt tay vào xây dựng
một nèn kinh tế xã hội chủ nghĩa thống nhất trên cả nước. Cũng chính trong thời
kỳ này mô hình kinh tế tập trung bao cấp bắt đầu bộc lộ khiếm khuyết của nó
không chỉ ở Việt Nam mà ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa khác. Tuy rằng mô
hình này có thể tập trung được sức người, sức của cho mục đích phát triển trong
một giai đoạn nhất định nhưng vì nó không đề cao tới lợi ích cá nhân cho nên
sau một thời kỳ dài phát triển điều này đã làm triệt tiêu động lực của mỗi cá
nhân, tính ích kỷ của mỗi cá nhân bắt đầu trổi dậy. Hơn nữa, trong nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung cao độ những qui luật của kinh tế như qui luật cung cầu, qui
luật giá trị, qui luật phân phối bị biến dạng đi, nền kinh tế hàng hoá chỉ tồn tại
trên danh nghĩa, lưu thông hàng hoá bị đình trệ. Chính vì những lý do này mà sau
giai đoạn phát triển rực rỡ (những năm 60 của thế kỷ 20) thì tới những năm cuối
của thập kỷ 70 ở những nước xã hội chủ nghĩa đã có những dấu hiệu chững lại và
đồng thời những tư tưởng về cải cách bắt đầu xuất hiện. Sự xuất hiện những tư
tưởng về cải cách là tất yếu vì trong một nền kinh tế hàng hoá phát triển cao như
vậy trên thế giới nếu vẫn giữ nguyên mô hình cũ thì các nước xã hội chủ nghĩa sẽ
bị bỏ xa trên con đường phát triển và quốc gia đi tiên phong trong vấn đề cải cách
là Trung Quốc. Đảng và Nhà nước ta đã sớm nhận biết được xu hướng phát triển
này và những tư tưởng về cải cách kinh tế đã được đề cấp tới từ Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ V (3/1982) và được chính thức quyết định đưa vào thực tiễn tại
đại hội VI (12/1986), trong các kỳ đại hội VII, VIII tiếp theo vấn đề cải cách tiếp
tục được bổ sung và hoàn thiện. Như vậy việc chuyển đổi nền kinh tế nước ta từ
mô hình kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường là một bước đi đúng
đắn, phản ánh đúng qui luật khách quan và xu thế của thời đại.
Chúng ta khẳng định rằng chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước là một tất yếu, nhưng sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế
ở mức độ nào, thông qua những công cụ gì là một vấn đề không dễ giải quyết.
Trong lịch sử nhân loại có những thời kỳ Nhà nước hầu như không can thiệp vào
nền kinh tế - thời kỳ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, hoặc can thiệp rất sâu vào
nền kinh tế như trong mô hình kinh tế tập trung ở các nước xã hội chủ nghĩa hay
ở các nước tư bản chủ nghĩa sau khủng hoảng 1929 - 1933 theo lý thuyết Keynes
nhưng những thành công do chúng mang lại chỉ mang tính lịch sử, nó không là
một mô hình cho sự phát triển bền vững và tới nay các nhà kinh tế thống nhất với
nhau rằng cần thiết có sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế trong một cơ
chế thị trường đầy năng động.
Nền kinh tế luôn vận động và phát triển trong mỗi thời kỳ nó lại có mọt só
tính chất đặc trưng đòi hỏi sự can thiệp của Nhà nước ở mức độ phù hợp, chính
vì vậy khi Việt Nam chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế mới thì vai trò của Nhà
nước là quan trọng và việc nghiên cứu vấn đề quản lý Nhà nước đối với nền kinh
tế là vấn đề quan trọng ở nước ta hiện nay.
Phần II
Nội dung
1. Nhà nước và chức năng kinh tế của Nhà nước
1.1. Nhà nước.
Nhà nước không xuất hiện cùng với con người mà chỉ khi xã hội loài người
phát triển tới một mức độ nhất định thì Nhà nước mới ra đời. Trong suốt thời kỳ
cộng sản nguyên thuỷ khi mà những mối quan hệ xã hội còn ở mức giản đơn -
mối quan hệ chủ yếu dựa trên quan hệ truyền thống, trong xã hội không có sự
phân chia đẳng cấp, mọi người đều bình đẳng với nhau về quuyền và nghĩa vụ thì
lúc đó Nhà nước cũng không tồn tại. Đến cuối thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ khi
mà lực lượng sản xuất đã phát triển hơn trong xã hội đã xuất hiện người giàu và
người nghèo thì cũng là lúc tiền đề cho sự xuất hiện và tồn tại của Nhà nước cũng
bắt đầu nảy sinh. Theo qui luật của tự nhiên những người nghèo sự tồn tại họ
phải vay mượn, lệ thuộc vào những người giàu do đó người nghèo sẽ bị nghèo
hơn, người giàu sẽ giàu hơn, trong xã hội hình thành hai tầng lớp người có đẳng
cấp khác hẳn nhau. Những người nghèo họ cũng không chịu đứng yên một chỗ,
trong con người họ luôn có tư tưởng phản kháng lại, những người giàu để bảo vệ
lợi ích của tầng lớp mình họ cần phải có một cái gì đó đủ sức mạnh trấn áp lại sự
chống đối của tầng lớp đối kháng và cái tất yếu phải được tạo ra đấy chính là Nhà
nước. Nhà nước được định nghĩa là: "Nhà nước là một máy cưỡng chế đặc biệt
nằm trong tay giai cấp thống trị, được giai cấp thống trị tạo ra để bảo vệ lợi ích
cho giai cấp mình".
Như vậy Nhà nước chỉ xuất hiện khi xã hội đã phân chia giai cấp mà
nguyên nhân sâu xa đó chính là từ lợi ích kinh tế của mỗi giai cấp trong xã hội.
Ngay từ khi xuất hiện thì Nhà nước, kinh tế đã gắn bó mật thiết và trong quá trình
phát triển của Nhà nước sau này hai mặt này không thể tách với nhau.
1.2. Chức năng của Nhà nước.
Từ lý luận về Nhà nước ta đã thấy Nhà nước là công cụ của giai cấp thống
trị dùng để điều tiết các quan hệ xã hội nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp mình.
Khi đề cập tới chức năng của Nhà nước các nhà nghiên cứu thống nhất rằng Nhà
nước có hai chức năng chính là chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
- Về chức năng đối nội bao gồm hai bộ phận chính là chức năng kinh tế và
chức năng giữ vững an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội, trấn áp sự chống đối
của các giai cấp khác và các âm mưu phản động. Trong hai chức năng này thì
chức năng kinh tế được đưa lên hàng đầu vì nó là cái để cho một Nhà nước có thể
tồn tại và phát triển.
- Chức năng đối ngoại của Nhà nước cũng bao gồm hai chức năng chính là
chức năng bảo vệ tổ quốc và chức năng củng cố mở rộng quan hệ hợp tác hữu
nghị với các nước khác. Trong điều kiện ngay nay chức năng đối ngoại có vị trí
đặc biệt quan trọng.
1.3. Những quan điểm và học thuyết bàn về chức năng kinh tế (vai trò
kinh tế) của Nhà nước.
ở phần lý luận về Nhà nước chúng ta đã thấy chức năng kinh tế là một trong
những chức năng quan trọng của Nhà nước. Vậy chức năng này được quan tâm ở
mức độ nào trong lịch sử. Sự thực trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ thì những học
thuyết bàn về kinh tế và chức năng kinh tế của nó hầu như không có, nhưng Nhà
nước được giai cấp chủ nô sử dụng một cách trực tiếp để can thiệp vào xã hội,
phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Sang thời kỳ xã hội phong kiến do có sự khác
nhau về cách thức tổ chức xã hội và phân chia ruộng đất mà giữa phương Đông
và phương Tây, những quan điểm về quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế cũng
khác nhau. ở phương Tây với sự phân chia lãnh thổ quốc gia thành các lãnh địa
riêng biệt do các lãnh chúa cai quản với phương thức sản xuất khép kín, tự cung,
tự cấp trong từng lãnh địa đã làm cho vai trò của Nhà nước hoàn toàn bị lu mờ.
Trái lại ở phương Đông với quan niệm toàn bộ đất đai thuộc về nhà Vua cho nên
mối quan hệ giữa Nhà nước mà người đại diện là Vua với vấn đề kinh tế trở nên
khăng khít hơn. Chính vì vậy trong giai đoạn này ở phương Đông đã có một số
quan điểm về vai trò kinh tế của Nhà nước khá độc đáo.
Bàn về vấn đề này, ngay từ thời chiến quốc (476-221 TCN) ở Trung Quốc,
trong học thuyết "bình dân kinh tế chủ nghĩa" Mạnh Tử cho rằng: chính sách kinh
tế của Nhà nước phải hướng đến làm giàu cho dân. Dân giàu thì nước mạnh,
không có nước nào dân giàu mà nước lại nghèo, ngược lại có thể có nước giàu,
của cải chất đầy kho mà dân lại nghèo. Về cơ bản tương tưởng kinh tế của Mạnh
Tử là: bản chất lợi ích của cá nhân thống nhất với lợi ích toàn xã hội, mọi người
khi làm giàu cho mình thì cũng làm giàu cho toàn xã hội. Từ đó đặt lên vai trò
của Nhà nước phải điều hoà, sắp xếp các quan hệ lợi ích sao cho sự xung đột lợi
ích cá nhân không làm thủ tiêu lợi ích xã hội mà phải thúc đẩy lợi ích xã hội.
Như vậy ta thấy, từ thời Mạnh Tử Nhà nước đã can thiệp vào nền kinh tế đặc biệt
trong lĩnh vực phân phối sản phẩm mà trước hết là khâu phân phối tư liệu sản
xuất.
ở Việt Nam tư tưởng Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế xuất hiện rất sớm.
Trên thực tế Nhà nước đã can thiệp vào nền kinh tế và đã thu được những thành
công cũng như không thành công. Sự xuất hiện sớm nhất về can thiệp Nhà nước
vào nền kinh tế bắt đầu từ thời nhà Lý. Chế độ phong cấp ruộng đất của nhà Lý
cho các quan lại đã dẫn tới sự hình thành các thái ấp, nhưng chỉ có rất ít ruộng
đất biến thành ruộng đất tư mà phần lớn các ruộng đất vẫn là ruộng đất công
thuộc quyền sở hữu của nhà Vua, người được phong đất chỉ có quyền chiếm giữ
và sử dụng, việc bóc lột của chủ thái ấp vẫn chịu sự không chế cảu Nhà nước
Trung ương. Bên cạnh Nhà nước trung ương đã huy động sức dân tiến hành khai
hoang, đắp đê. Như vậy ngoài đặc điểm chung với các Nhà nước phong kiến
phương Tây, Nhà nước phong kiến Việt Nam ngay từ đầu đã nhận thức rất rõ về
quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất nói riêng và của cải nói chung. Do đó,
một mặt Nhà nước trao quyền sử dụng cho quan lại, mặt khác Nhà nước áp dụng
các biện pháp để củng cố quyền sở hữu và kiểm soát được hoạt động của quan
lại. Tuy đã có ý thức kiểm soát hoạt động trong các thái ấp nhưng trên thực tế
Nhà nước trung ương không thể kiểm soát được toàn bộ hoạt động của họ.
Năm 1397 Hồ Quý Ly ban hành chính sách "hạn điền" và "hạn nô" với nội
dung là hạn chế ruộng đất cấp cho quan lại và số nô tì mà các quan có thể có
nhằm tránh lãng phí, tập trung sức mạnh kinh tế cho Nhà nước.
Năm 1429, sau khi đánh thắng giặc minh, nhà Lê ban hành chế độ quân
điền và năm 1477 ban hành chế độ lộc điền. Thực chất đây là chính sách xoá bỏ
kinh tế điền trang thái ấp hình thành từ thời nhà Lý. Chế độ Lộc điền là hình thức
cấp lương cho quan lại bằng quyền sử dụng một diện tích ruộng đất nào đó tuỳ
theo cấp bậc, còn Quân điền là chế độ phân phối ruộng đất cho dân tuỳ theo cấp
bậc, còn Quân điền là chế độ phân phối ruộng đất cho dân tuỳ theo thứ bậc trong
xã hội.
Sự suy tàn của Nhà nước phong kiến ở phương Tây (thế kỷ XV) gắn liền
với sự hình thành Nhà nước tư sản, quá trình tích luỹ tư bản được bắt đầu thực
hiện - nền kinh tế thị trường cũng bắt đầu được hình thành. Trong thời kỳ này để
cho nền kinh tế phát triển nhanh giai cấp tư sản cần phải có sự trợ giúp của "bà
đỡ" tức là cần có sự giúp đỡ của Nhà nước. Chính vì vậy vai trò quản lý của Nhà
nước được xác lập và nâng cao. điều này được thể hiện trong tư tưởng kinh tế của
những người theo trường phái trọng thưonưg. Cụ thể Nhà nước dùng chính sách
tiền tệ nghiêm ngặt, tìm mọi cách để tích luỹ tiền tệ (tiền vàng), không cho tiền tệ
chảy ra nước ngoài, họ cũng có những qui định nghiêm ngặt đối với các thương
gia. Trong chính sách ngoại thương họ đẩy mạnh xuất khẩu thành phẩm, không
xuất khẩu sản phẩm dở dang, nguyên liệu thô, trợ giá giúp đỡ cho xuất khẩu
trong khi đó lại dùng hàng rào thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu để hạn chế nhập
khẩu. cũng nhờ những chính sách này của Nhà nước mà trong giai đoạn tích luỹ
nguyên thuỷ Nhà nước tư sản đã tích luỹ được một lượng của cải rất lớn.
Xã hội phát triển lên cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất với quan
hệ sản xuất mới thì kiểu mua rẻ, bán đắt, nền kinh tế quá chú trọng vào thương
nghiệp không còn phù hợp nữa. Một quốc gia muốn phát triển thì phải tăng
cường sức sản xuất trong nước thông qua tăng năng suất lao động, xã hội lúc này
cần một môi trường kinh tế tự do hơn giúp các nhà sản xuất có thể phát huy hết
khả năng của mình. ở thời kỳ đó đã dâng lên một làn sóng ủng hộ tự do cạnh
tranh mà người tiêu biểu nhất là nhà kinh tế học cổ điển Anh - Adam Smít (1723
- 1790) với học thuyết "bàn tay vô hình" và nguyên lý"Nhà nước không can
thiệp" vào hoạt động của nền kinh tế. Ông rằng việc tổ chức nền kinh tế hàng hoá
cần theo nguyên tắc tự do. Sự hoạt động của nền kinh tế là do các qui luật khách
quan tự phát chi phối, sự vận động trên thị trường là do quan hệ cung - cầu và sự
biến đổi tự phát của giá cả hàng hoá trên thị trường quyết định quan hệ giữa
người với người là quan hệ lợi ích kinh tế. Con người hoạt động chỉ nhằm lợi
nhuận siêu ngạch. Song do "bàn tay vô hình" chi phối buộc người ta phải tuân
theo tỷ suất lợi nhuận bình quân. Để cho nền kinh tế hoạt động đạt hiệu quả Nhà
nước không nên can thiệp vào kinh tế thị trường và hoạt động doanh nghiệp. Nhà
nước chỉ nên can thiệp vào những vấn đề, những mặt mà sức của một doanh
nghiệp không thể với tới như xây dựng đường xá, bến cảng.... Sự thực trong thời
kỳ chủ nghĩa tư bản cạnh tranh, nền kinh tế đã vận hành một cách năng động và
đạt hiệu quả cao. Nhưng sự phát triển của tự do cạnh tranh đã dẫn đến sự hình
thành các tổ chức độc quyền làm giảm hiệu quả phát triển và một vấn đề mà các
nhà kinh tế học cổ điển không nghĩ tới đó là khủng hoảng kinh tế. Liên tiếp trong
các năm cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX khủng hoảng kinh tế liên tiếp xảy ra
theo chu kỳ và các chu kỳ ngày càng rút ngắn mà đỉnh cao là cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới 1929 - 1933. Thuyết "bàn tay vô hình" không còn đủ sức đảm bảo
cho nền kinh tế phát triển ổn định và cân bằng nữa, thực tiễn đòi hỏi phải có mọt
lý thuyết kinh tế mới phù hợp hơn. Và vào thời điểm này, J.M Keynes (1884 -
1946) đã đưa ra lý thuyết Nhà nước điều biết nền kinh tế thị trường với một
thuyết có tên gọi "bàn tay hữu hình". Theo lý thuyết Keynes Nhà nước can thiệp
vào nền kinh tế ở cả tầm vĩ mô và vi mô. ở tầm vĩ mô Nhà nước sử dụng các công
cụ như lãi suất, chính sách tín dụng điều tiết lưu thông tiền tệ, lạm pháp, thuế,
bảo hiểm , trợ cấp đầu tư phát triển... ở tẩm vĩ mô, Nhà nước trực tiếp phát triển
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ công cộng. J.M Keynes và
những người ủng hộ lý thuyết của ông tin tưởng rằng sự can thiệp như vậy của
Nhà nước vào nền kinh tế sẽ khắc phục được tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp,
tạo ra sự ổn định cho phát triển kinh tế xã hội.
Nhưng thực tế những chấn động trong kinh tế xã hội vẫn diễn ra, thất
nghiệp, lạm pháp, khủng hoảng không được cải thiện. Điều này đã làm tăng thêm
làn sóng phản đốn Keynes và xuất hiện tư tưởng phải phối hợp "bàn tay vô hình"
với "bàn tay hữu hình"để điều chỉnh nền kinh tế. Đó cũng là quan điểm của các
nhà kinh tế học hiện đại P.Samuelson cho rằng "để phát triển kinh tế chúng ta
phải sử dụng cả "bàn tay vô hình" và "bàn tay hữu hình". Nếu chúng ta chỉ sử
dụng một "bàn tay vôn hình" hoặc "bàn tay hữu hình" thì chẳng khác nào người
ta vổ tay chỉ bằng một bàn tay. Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại
thì Nhà nước không phải là cái gì đó đứng ngoài nền kinh tế mà nó cũng là một
trong những chủ thể của nền kinh tế, điều này được thể hiện trong sơ đồ sau:
ở đây Chính phủ tham gia vào hoạt động của nền kinh tế cả với tư cách là
người điều tiết cùng với các qui luật kinh tế khách quan bằng cách đề ra hành
lang pháp lý cho các chủ thể khác của nền kinh tế hoạt động, các chính sách về
lao động việc làm, lãi suất tín dụng, quản lý ngoại hối... và với tư cách là chủ thể
trực tiếp tham gia hoạt động kinh tế bằng cách tiêu thụ sản phẩm của các công ty,
thu thuế, đầu tư phát triển các lĩnh vực cần thiết trong nền kinh tế... Như vậy các
nhà kinh tế học hiện đại thừa nhận rằng: các nền kinh tế hiện đại muốn phát triển
được phải dựa vào cả cơ chế thị trường cũng như sự quản lý của Nhà nước.
1.4. Kết luận.
Thị trường
hàng hoá và
dịch vụ
Chính phủ
Thị trường
các yếu tố
sản xuất
Công
ty
Hộ gia
đình
Từ khi Nhà nước xuất hiện thì vấn đề Nhà nước và kinh tế là hai mặt không
thể tách rời nhau. Nhà nước tồn tại trên nền tảng lợi ích kinh tế và ngược lại Nhà
nước tác động lại nền kinh tế thông qua các chính sách, biện pháp, công cụ khác
nhau nhằm duy trì một nền kinh tế vững mạnh để thông qua đó duy trì sự tồn tại
của chính cái Nhà nước đang tồn tại trên cơ sở nền kinh tế ấy. Trong suốt lịch sử
phát triển của Nhà nước tuy rằng mức độ can thiệp của Nhà nước có mức độ
khác nhau nhưng một điều tất yếu là Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh tế.
Cũng chính vì vậy một trong những chức năng quan trọng của Nhà nước là chức
năng kinh tế, nếu làm tốt chức năng này thì những chức năng còn lại mới có cơ
sở để hoàn thành được.
2. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
2.1. Đặc điểm của nền kinh tế nước ta trước đổi mới.
Nước nhà hoàn toàn độc lập (1975), nhân dân ta bắt tay vào xây dựng
nhiệm vụ chiến lược thứ hai mà ngay từ khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành
lập chúng ta đã đề ra là xây dựng nước ta trở thành một nước xã hội bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đây là điều mà đã được những nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác dự đoán và nâng nó thành lý luận, muốn làm được điều này
chúng ta phải xây dựng được một nền kinh tế quá độ với nhiệm tạo cơ sở vật chất
kỹ thuật cần thiết cho chủ nghĩa xã hội. ở thời kỳ này ta áp dụng một cách triệt để
mô hình kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa - mô hình tập trung, bao cấp. Ta
có thể khái quát đặc điểm của nền kinh tế nước ta thời kỳ đó là: Một nền kinh tế
kế hoạch hoá cao độ, Nhà nước can thiệp rất sâu vào mọi lĩnh vực của nền kinh
tế, của quá trình sản xuất từ khâu sản xuất tới khâu phân phối sản phẩm thông
qua các kế hoạch giap nộp, cấp phát cụ thể tới từng đơn vị kinh tế. Chính điều
này đã làm cho quá trình sản xuất không hiệu quả, nền kinh tế thụ động, kinh tế
hàng hoá chỉ tồn tại trên danh nghĩa, những qui luật kinh tế bị làm cho méo mó.
Trong lĩnh vực nông nghiệp nếu như trong thời kỳ chiến tranh với việc vào hợp
tác x