Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết, là một kiểu quan hệ kinh tế - xã hội mà 
trong đó, sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với 
quan hệ hàng hoá tiền tệ, với quan hệ cung cầu,. Thực tiễn thấy rõ kinh tế thị trường 
có khả năng tập hợp được hành động trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và 
hướng đến lợi ích chung của xã hội, đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng 
suất lao động. Nhưng nền kinh tế thị trường không phải là một tổ chức hài hoá mà 
trong hệ thống đó cũng chứa rất nhiều những yếu tố phức tạp và nan giải. Và thực 
tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy mô hình phát 
triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối 
cảnh hiện nay là phù hợp hơn cả.
Mô hình này về đại thể đáp ứng được những thách thức của sự phát triển. Kinh 
tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Thực 
ra nó là thành quả của lịch sử nhân loại gắn với sản xuất hàng hoá.
Nhận thức được những điều đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã tiến 
hành đổi mới. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung -hành chính - quan liêu - bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận 
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa. Và tại các kì Đại hội VII, VIII, đã được bổ sung đi đến hoàn thiện.
Sự phát triển của nền kinh tế trong hơn mười năm kể từ khi đổi mới đến nay đã 
thu được nhiều kết quả đáng kể. Chúng ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã 
hội, đời sống nhân dân được nâng cao, đất nước đổi mới lên rất nhiều,. Đó là thành 
quả của quá trình phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó vai trò của Đảng và Nhà 
nước hết sức to lớn. Nhà nước là người hoạch định ra các chính sách chiến l ược phát 
triển kinh tế, phát huy tối đa những mặt tích cực, và hạn chế tối thiểu những hạn mặt 
tiêu cực của kinh tế thị trường. Mà quan trọng nhất là sự định hướng của Nhà nước 
để kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã lựa chọn.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 42 trang
42 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2008 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: 
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong 
nền kinh tế thị trường định hướng 
xã hội chủ nghĩa 
a-/ Đặt vấn đề 
Kinh tế thị trường, như chúng ta đã biết, là một kiểu quan hệ kinh tế - xã hội mà 
trong đó, sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường, tức là gắn chặt với 
quan hệ hàng hoá tiền tệ, với quan hệ cung cầu,... Thực tiễn thấy rõ kinh tế thị trường 
có khả năng tập hợp được hành động trí tuệ và tiềm lực của hàng triệu con người và 
hướng đến lợi ích chung của xã hội, đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng năng 
suất lao động. Nhưng nền kinh tế thị trường không phải là một tổ chức hài hoá mà 
trong hệ thống đó cũng chứa rất nhiều những yếu tố phức tạp và nan giải. Và thực 
tiễn vận động của nền kinh tế thế giới những năm gần đây cho thấy mô hình phát 
triển kinh tế theo xu hướng thị trường có sự điều tiết vĩ mô từ trung tâm, trong bối 
cảnh hiện nay là phù hợp hơn cả. 
Mô hình này về đại thể đáp ứng được những thách thức của sự phát triển. Kinh 
tế thị trường không phải là một chế độ kinh tế đồng nhất với chủ nghĩa tư bản. Thực 
ra nó là thành quả của lịch sử nhân loại gắn với sản xuất hàng hoá. 
Nhận thức được những điều đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) đã tiến 
hành đổi mới. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung - 
hành chính - quan liêu - bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận 
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa. Và tại các kì Đại hội VII, VIII, đã được bổ sung đi đến hoàn thiện. 
Sự phát triển của nền kinh tế trong hơn mười năm kể từ khi đổi mới đến nay đã 
thu được nhiều kết quả đáng kể. Chúng ta đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã 
hội, đời sống nhân dân được nâng cao, đất nước đổi mới lên rất nhiều,... Đó là thành 
quả của quá trình phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta. Trong đó vai trò của Đảng và Nhà 
nước hết sức to lớn. Nhà nước là người hoạch định ra các chính sách chiến lược phát 
triển kinh tế, phát huy tối đa những mặt tích cực, và hạn chế tối thiểu những hạn mặt 
tiêu cực của kinh tế thị trường. Mà quan trọng nhất là sự định hướng của Nhà nước 
để kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã lựa chọn. 
Đây là điểm khác biệt giữa cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta và các nước khác. 
Chính sự định hướng này bảo đảm sự phát triển kinh tế do dân và vì dân, của dân,... 
Tuy nhiên sự nhận thức về vấn đề vài trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị 
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa còn có sự khác nhau: Đó là còn có nhiều ý 
kiến cho rằng Nhà nước không nên can thiệp vào nền kinh tế thị trường. Vì sự can 
thiệp của Nhà nước sẽ làm mất đi động lực phát triển của kinh tế thị trường, cũng có 
ý kiến cho rằng trong cơ chế cũ, Nhà nước mới có điều kiện khẳng định vai trò quản 
lý, điều tiết sự vận hành của nền kinh tế. Còn trong nền kinh tế thị trường vai trò 
được giảm nhẹ, chỉ nên quản lý vĩ mô, còn mọi hoạt động để doanh nghiệp tự giải 
quyết,... 
Khi mọi vấn đề chưa được thông suốt, thì nền kinh tế phát triển sẽ không đạt 
hiệu quả. Do đó vấn đề này đang trở nên cấp bách đối với nước ta. Mặt khác Nhà 
nước ta đã phát huy vai trò của mình một cách có hiệu quả, nhưng không phải không 
có hạn chế. Đó là sự cồng kềnh của bộ máy, chưa xó bỏ được thói quen của cơ chế 
cũ, chưa thích nghi với cơ chế mới nên hiệu quả của nó chưa cao. Do đó trong đề án 
này em xin chọn đề tài: “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa”. Để làm rõ hơn nữa mối quan hệ giữa “bàn tay vô 
hình và bàn tay hữu hình”. Cũng như đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò 
Nhà nước ta hiện nay. 
B-/ Giải quyết vấn đề 
I-/ Lý luận chung về kinh tế thị trường: 
1-/ Một số đặc điểm chung về kinh tế thị trường: 
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó sản 
xuất ra gì sản xuất như thế nào, cho ai được quyết định thông qua thị trường. 
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế hàng hoá do sự tác động của 
các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản của 
tổ chức kinh tế là cái gì, như thế nào, cho ai. Cơ chế thị trường bao gồm các vấn đề 
cơ bản cung cầu và giá cả trên thị trường. 
Kinh tế thị trường xuất hiện như là một yêu cầu khách quan không thể thiếu 
được của nền kinh tế hàng hoá. Song không nên đồng nhất nó với nền kinh tế hàng 
hoá. Xét về mặt lịch sử kinh tế có trước kinh tế thị trường, kinh tế hàng hoá ra đời thì 
thị trường cũng xuất hiện. Nhưng không có nghĩa đó là đã là nền kinh tế thị trường. 
Với sự tăng trưởng của kinh tế hàng hoá, thị trường được mở rộng phong phú đồng 
bộ. Các quan hệ tương đối hoàn thiện thì mới có kinh tế thị trường. Vậy kinh tế thị 
trường không phải là một giai đoạn khác biệt, độc lập đứng ngoài kinh tế hàng hoá 
mà là một giai đoạn cao của kinh tế hàng hoá. 
Cơ chế thị trường không phải là một sự hỗn đọn mà là một trật tự kinh tế là bộ 
máy tinh vi kết hợp với một cách không có ý thức hoạt động của người tiêu dùng với 
các nhà sản xuất thông qua hệ thống giá cả thị trường. Không ai tạo ra nó, nó tự phát 
sinh và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá. 
Về bản chất cơ chế thị trường là cơ chế giá cả tự do. Nó có các đặc trưng cơ bản sau: 
Các vấn đề có liên quan đến việc phân bổ sử dụng các nguồn tài nguyên sản xuất khan 
hiếm như lao động, vốn tài nguyên thiên nhiên. Về cơ bản được quyết định một cách khách 
quan thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật cung cầu. 
Tất cả các mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể kinh tế được tiền tệ hoá. 
Động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và lợi ích 
kinh tế được biểu hiện tập trung ở các mức lợi nhuận. 
Tự do lựa chọn việc sản xuất kinh doanh và tiêu dùng từ phía các nhà sản xuất 
và những người tiêu dùng thông qua các mối quan hệ kinh tế. 
Thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế, đặc biệt là sự linh động của hệ 
thống giá cả nền kinh tế thị trường luôn duy trì sự cân bằng giữa sức cung và sức càu 
của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ, ít khi gây ra sự khan hiếm và thiếu hụt hàng 
hoá. 
Cạnh tranh là môi trường và động lực thúc đẩy sản xuất phát triển thúc đẩy tăng 
năng suất lao động và tăng hiệu quả của sản xuất. 
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất mối quan hệ giữa mục tiêu tăng 
cường tự do cá nhân và mục tiêu công bằng xã hội, giữa đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng 
kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống. 
Cơ chế thị trường ngày nay càng phù hợp với cơ sở kỹ thuật mới của sản xuất 
và lưu thông gắn liền với sự biến đổi cơ cấu kinh tế. Khu vực dịch vụ ngày càng 
chiếm tỉ trọng lớn hơn, có vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển, tăng trưởng 
và ổn định sản xuất và đời sống. 
Hình thức công ty cổ phần phát triển như là một xu hướng chủ đạo trong kinh tế 
thị trường. 
Cơ chế thị trường ngày nay đã đặt người tiêu dùng ở vị trí hàng đầu. Nhờ sự 
phát triển sức sản xuất mới và nảy nở các nhu cầu mới, đa dạng, cơ chế thị trường có 
xu hướng thoả mãn nhu cầu không ngừng biến đổi của các nhóm dân cư sao cho phù 
hợp với lối sống văn hoá của họ thay cho nguyên tắc sản xuất và cung ứng hàng loạt 
bất chấp nhu cầu. 
Nhà doanh nghiệp là nhân vật trung tâm trong hoạt động thị trường. Nó là một 
tổ chức sống động của cơ chế thị trường không có nhà doanh nghiệp thì không có cơ 
chế thị trường. 
2-/ Ưu nhược điểm của kinh tế thị trường: 
Kinh tế thị trường cũng có mặt phải và mặt trái của nó. 
a-/ Ưu điểm: 
+ Kinh tế thị trường kích thích việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tăng năng suất lao 
động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất kinh tế thị trường lấy lợi nhuận làm động 
lực hoạt động do đó để thu được lợi nhuận, đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường 
xuyên áp dụng kỹ thuật mới, hợp lý hoá sản xuất làm cho năng suất lao động cá biệt 
năng suất lao động xã hội tăng lên. 
Nhờ đó mà nền kinh tế thị trường vừa mới ra đời đến nay đã khoảng 5 thế kỷ đã 
tạo ra một lực lượng sản xuất xã hội cao chưa từng thấy trong lịch sử loài người. 
+ Kinh tế thị trường có tính năng động và khả năng thích nghi nhanh chóng. 
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc: Người nào đưa ra thị 
trường hàng hoá trước tiên người đó sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Mặt khác nếu 
nhận thức được sản phẩm của mình không có người mua hay lượng cầu đang giảm 
dần thì người sản xuất sẽ không sản xuất nữa. Điều đó dẫn tới sự tiết kiệm hao phí 
lao động xã hội. Vì vậy, trong nền kinh tế thị trường luôn luôn, diễn ra sự đổi mới: 
nhiều sản phẩm trước đây vẫn bán hay mất đi vì không có nhu cầu, nhiều sản phẩm 
mới với chất lượng, quy cách, phẩm chất ngày càng hoàn thiện hơn xuất hiện. 
+ Trong nền kinh tế thị trường có nhiều hàng hoá và dịch vụ. Đó là một nền 
kinh tế dư thừa chứ không phải là một nền kinh tế thiếu hụt. Do vậy nền kinh tế thị 
trường tạo điều kiện vật chất để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, văn 
hoá và sự phát triển toàn diện của con người. 
+ Cơ chế thị trường có khả năng tự động điều tiết nền sản xuất xã hội tức là tự 
động phân bổ các nguồn tài nguyên sản xuất vào các khu vực, các ngành kinh tế mà 
không cần bất cứ sự điều khiển từ trung tâm nào. 
+ Cơ chế thị trường tự động kích thích sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh 
tế cả theo chiều rộng và chiều sâu. Tăng cường chuyên môn hoá sản xuất. Trong giai 
đoạn đầu của sự phát triển kinh tế thị trường đã phân hoá những người sản xuất và 
những người quản lý. Khi phát triển hơn, nền kinh tế thị trường tiếp tục phân hoá và 
chuyên môn hoá các nhà kinh doanh vào các ngành các lĩnh vực kinh tế cụ thể mà ở 
đó họ có ưu thế nhất. 
Bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, còn rất nhiều hạn chế và mâu thuẫn. 
b-/ Hạn chế: 
- Cơ chế thị trường có thể gây ra những mất ổn định và thường xuyên phá vỡ 
các mặt cân đối trong nền sản xuất xã hội. Hậu quả tiêu cực của sự vận động và phát 
triển của nó thường đi liền với những vấn đề nan giải. 
Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường trong mấy thập kỷ qua chỉ rõ vấn đề 
lạm phát, thất nghiệp và chu kỳ kinh doanh luôn là những căn bệnh kinh niên không 
thể nào khắc phục được nếu không có sự can thiệp của Nhà nước. 
- Cơ chế thị trường có thể hoạt động không có mấy hiệu quả kể cả trong cạnh 
tranh tự do kể cả trong cạnh tranh có sự chi phối của các tổ chức độc quyền. 
- Cơ chế thị trường có thể gây ra sự mất cân bằng và nhiều vấn đề xã hội. 
- Cơ chế thị trường có thể cho phép tổ chức sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao 
nhưng cũng có thể gây ra những bất bình đẳng lớn vì trong hệ thống tổ chức kinh tế 
xã hội này không có lý do gì buộc cơ chế thị trường phải phân phối sản phẩm một 
cách hợp lý. 
- Trong nền kinh tế thị trường thường tồn tại những ngành kinh tế, thiếu sự cạnh 
tranh vì ở đó có mức lợi nhuận thấp, số vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm 
nhưng rất cần cho sự ổn định tăng trưởng kinh tế và rất cần cho việc giải quyết một 
số vấn đề xã hội. 
- Một hậu quả của nền kinh tế thị trường là tình trạng làm ô nhiễm môi trường, 
không khí, nguồn nước, tàn phá đất đai, rừng đầu nguồn vì mục đích lợi nhuận. Song 
việc thu nhiều lợi nhuận thì có lợi cho cá nhân còn sự tàn phá môi trường thì xã hội 
phải gánh chịu. 
- Đồng thời trong cơ chế thị trường do mục đích của kinh doanh là lợi nhuận. 
Dẫn đến tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức luân lý,... 
II-/ Lí luận về vai trò của Nhà nước: 
1-/ Lịch sử phát triển của Nhà nước: 
Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị. Một bộ máy chuyên 
làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì 
trật tự xã hội nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện những mục đích của giai cấp 
thống trị và bảo vệ những lợi ích của giai cấp thống trị đó trong xã hội. 
Trong lịch sử xã hội loài người có một thời kì không có Nhà nước. Đó là thời kì 
cộng sản nguyên thuỷ, do trình độ phát triển thấp kém của lực lượng sản xuất, con 
người cùng chung sống, cùng lao động và cùng trưởng thành. Quá trình lao động 
chung mọi người đều bình đẳng trong lao động, hưởng thụ, xã hội không có người 
giàu, người nghèo. Cơ sở kinh tế đó đã làm xuất hiện hình thức tổ chức xã hội là thị 
tộc. Thị tộc là tổ chức cơ sở đầu tiên của xã hội loài người trong chế độ cộng sản 
nguyên thuỷ. Nhiều thị tộc hợp lại thành bộ lạc. Quyền lực trong xã hội cộng sản 
nguyên thuỷ là quyền lực xã hội với hệ thống quản lý rất đơn giản (hợp đồng thị tộc, 
hội đồng bào tộc, hội đồng bộ lạc) không mang tính giai cấp. 
Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển hơn của cải ngày càng nhiều đời sống 
ngày được nâng cao. Số lượng sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều tiêu dùng không hết 
dẫn đến có sản phẩm dư thừa. Những người đứng đầu các thị lạc bộ lạc lợi dụng chức 
quyền lấy số sản phẩm dự thừa chia nhau làm của riêng. Và bắt đầu xuất hiện chế độ 
tư hữu về tư liệu sản xuất xã hội phân chia thành những giai cấp đối kháng chủ nô - 
nô lệ. Mâu thuẫn giữa hai giai cấp này ngày càng sâu sắc quyết liệt. Để bảo vệ lợi ích 
của giai cấp mình giai cấp chủ nô đã lập một bộ máy bạo lực đó là Nhà nước, Nhà 
nước đầu tiên trong lịch sử: Nhà nước chiếm hữu nô lệ. 
- Lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển hơn nữa và cùng với nó là các hình thức 
Nhà nước mới ra đời: Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản,... 
Như vậy Nhà nước ra đời là do sự phát triển của lực lượng sản xuất, do sự phân 
chia của cải xã hội không bình đẳng dẫn đến mâu thuẫn xã hội. Nhà nước ra đời với 
nhiệm vụ điều hoà những xung đột kinh tế. Nguyên nhân ra đời của Nhà nước là do 
vấn đề kinh tế. 
Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì trật tự xã hội 
sao cho phùhợp với lợi ích của nó. Chức năng ban đầu của Nhà nước là quản lý hành 
chính bao gồm các lĩnh vực chủ yếu như: 
- Quản lý lãnh thổ, thiết lập quan hệ bang giao với các nước láng giềng (chức 
năng đối ngoại). 
- Quản lý trật tự xã hội, sắp xếp mối quan hệ giữa các cá nhân, các giai cấp, các 
tầng lớp, các cộng đồng dân tộc (bộ lạc, bộ tộc,...) sao cho phù hợp với ý chí của giai 
cấp đã sản sinh ra nó (chức năng đối nội). 
Để thực hiện hai chức năng này các Nhà nước đều phải có những cơ sở kinh tế 
nhất định. Trong lịch sử phát triển các Nhà nước đã có các phương pháp khác nhau 
để nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ chức năng quản lý của mình. 
Như vậy, trước hết Nhà nước là một thể chế chính trị là một trong những yếu tố 
thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội. Tuy nhiên, lịch sử xã hội loài người chứng tỏ rằng 
trong sự phát triển của mình, do yêu cầu của quản lý xã hội, chức năng quản lý, kinh tế 
của Nhà nước luôn gắn liền với chức năng quản lý hành chính. Trong các Nhà nước 
đương đại không có Nhà nước nào đứng trên kinh tế hay ngoài kinh tế. Tuy nhiên vai trò 
kinh tế của Nhà nước trong mỗi giai đoạn lịch sử không giống nhau. 
Trong thời đại chiếm hữu nô lệ. Nhà nước chủ nô - kiểu Nhà nước đầu tiên 
trong lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của 
cải được sản xuất ra. Trong thời đại của Nhà nước chủ nô, của cải được sản xuất ra 
bởi những người những người nô lệ, nhưng khối lượng của cải ấy không được “phân 
phối” mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng bạo lực, các thủ đoạn bạo lực phi kinh 
tế ở đây được sử dụng làm công cụ để chiếm đoạt, cưỡng bức kinh tế. 
Trong thời đại phong kiến, Nhà nước phong kiến không chỉ can thiệp vào việc 
phân phối của cải mà còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ 
tầng cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích quan lại di dân mở mang các vùng đất 
mới đề ra các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ. Nhìn chung các hoạt 
động này diễn ra một cách tự phát. 
Dưới chủ nghĩa tư bản, với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường, tính chất xã 
hội hoá sản xuất và tính năng động của nền kinh tế ngày càng làm cho vai trò kinh tế 
của Nhà nước tăng lên. 
Vào giữa thế kỷ XV, quá trình tích luỹ nguyên thuỷ tư bản được thực hiện. Nền 
kinh tế thị trường phát triển nhanh, giai cấp tư sản cần có “bà đỡ” hay sự hỗ trợ của 
Nhà nước. Chính vì vậy vai trò kinh tế của Nhà nước tư sản ngày càng được coi 
trọng. ở đây Nhà nước tư sản đã thực hiện một chính sách tiền tệ hết sức nghiêm 
ngặt, họ tìm mọi cách tích luỹ tiền tệ. Nhà nước trong giai đoạn này đã đề ra luật 
buộc các thương nhân nước ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ. Nhà nước 
còn quy định những nơi được phép buôn bán, để dễ dàng cho việc kiểm tra, kiểm 
soát. Trong chính sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế 
nhập khẩu cao, và thuế xuất khẩu các hàng sản xuất ở trong nước thấp, chỉ xuất thành 
phẩm chứ không xuất nguyên liệu, cấm nhập các mặt hàng xa xỉ phẩm. Nhà nước còn 
thực hiện việc hỗ trợ cho các thương nhân trong nước các phương tiện vật chất và tài 
chính khi họ tham gia buôn bán quốc tế. Đồng thời Nhà nước cũng quy định nghiêm 
ngặt tỉ giá hối đoái, cấm trả cho người nước ngoài cao hơn mức qui định của Nhà 
nước. Nhờ chính sách đó giai cấp tư sản đã tích luỹ được một lượng của cải và tiền tệ 
đáng kể. Từ đầu thế kỷ XVIII giai cấp tư sản đã phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất. 
Nhà nước xã hội chủ nghĩa: Đây là một Nhà nước kiểu mới nhiệm vụ bảo vệ sở 
hữu toàn dân và các hình thức sở hữu hợp pháp khác. Khi chủ nghĩa tư sản phát triển 
đến giai đoạn tột cùng của nó. Giai đoạn chủ nghĩa đế quốc khi mà lực lượng sản 
xuất đã phát triển ở trình độ xã hội hoá tương đối cao thì quan hệ sản xuất tư bản chủ 
nghĩa dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và bóc lột giá trị thặng dư, 
đã trở nên mâu thuẫn, không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển vì vậy 
cần một cuộc cách mạng thay đổi quan hệ sản xuất dẫn đến thay đổi Nhà nước. Mâu 
thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện về mặt xã hội là mâu 
thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản diễn ra dẫn đến đấu tranh xoá bỏ Nhà 
nước tư sản xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa có cơ 
sở kinh tế là tập thể các quan hệ sản xuất được dựa trên nền kinh tế hàng hoá nhiều 
thành phần phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng 
của giai cấp công nhân, có nhiệm vụ bảo vệ sở hữu toàn dân về tư liệu sản xuất là 
công cụ bảo vệ và bảo đảm của giai cấp công nhân, nông dân từ trước xã hội chủ 
nghĩa. 
2-/ Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thực hiện 
thông qua các chức năng cơ bản sau: 
a-/ Thiết lập khuôn khổ pháp luật: 
Chức năng này có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. ở đây Nhà 
nước đề ra các quy tắc trò chơi kinh tế mà các doanh nghiệp, người tiêu dùng và cả 
bản thân Chính phủ đều phải tuân thủ. Nó bao gồm quy định về tài sản, các quy tắc 
về hợp đồng và hoạt động kinh doanh, các trách nhiệm tương hỗ của các liên đoàn 
lao động và ban quản lý và nhiều luật lệ để xác định môi trường kinh tế. 
b-/ Hiệu quả: 
Nhà nước sửa chữa những khiếm khuyết của thị trường để thị trường hoạt động 
có hiệu quả như: hạn chế ảnh hưởng của độc quyền, trình trạng vô Chính phủ dẫn đến 
khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, nạn ô nhiễm môi trường,... 
Trước hết, cần phải nói rằng lợi dụng ưu thế của mình, các tổ chức độc quyền 
có thể quy định giá cả để thu lợi nhuận, và do vậy phá vỡ ưu thế của cạnh tranh hoàn 
hảo. Vì vậy cần phải có sự can thiệp của Nhà nước để hạn chế độc quyền, đảm bảo 
tính hiệu quả của cạnh tranh thị trường. 
Thứ hai, những tác động bên ngoài cũng dẫn đến tính không hiệu quả của hoạt 
động của thị trường và cũng đòi hỏi Nhà nước phải can thiệp. Tác động bên ngoài xảy 
ra khi doanh nghiệp tạo ra chi phí lợi ích cho doanh nghiệp khác hoặc người khác mà 
các doanh nghiệp đó không phải trả đúng số chi phí phải trả hoặc không được nhận 
những lợi ích nhẽ ra anh ta được nhận. Nhà nước phải sử dụng đến luật lệ để điều hành 
nền kinh tế như là một phương p