Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp vô cùng khó khăn vì kinh tế là cơ sở của 
xã hội. Đất nước ta trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phải xây dựng một nền kinh 
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp. 
Lịch sử phát triển kinh tế loài người từ trước đến nay đã trải qua rất nhiều hình thái 
kinh tế xã hội, nổi bật và rõ nét đó là hình thái công xã nguyên thu ỷ, chiếm hữu nô lệ, 
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trong tất cả các hình thái kinh tế đó 
chưa có một hình thái kinh tế nào có một cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách 
phù hợp và hợp lý nhất từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào kinh tế thị trường để giải 
quyết vấn đề cơ bản của nền kinh tế cho đến việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý điều 
hành của Nhà nước để phát triển kinh tế. Để góp phần vào sự lựa chọn cơ chế tổ chức 
quản lý để phát triển kinh tế cho phù hợp, đặc biệt là giai đoạn Việt Nam hiện nay đề 
tài: “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội 
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ”. Đó là sự kết hợp hài hoà tương hỗ lẫn nhau giữa 
“Bàn tay vô hình” và “Bàn tay hữu hình”. Nói một cách khác đó là sự kết hợp giữa sự 
quản lý của Nhà nước và cơ chế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát 
triển ở mức cao nhất, đồng thời hạn chế và khắc phục được những hạn chế và hậu quả 
xã hội một cách có hiệu quả nhất.
Nền kinh tế nước ta đang ở vào giai đoạn đặc biệt của sự phát triển, đó là bước 
ngoặt trong quá trình chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị 
trường có sự quản lý của Nhà nước. Như chúng ta đã biết, trong thời đại ngày nay 
không có nền kinh tế thị trường thuần tuý ở bất cứ nước nào trên thế giới, không có 
một nền kinh tế nào chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường mà không có sự quản lý của 
Nhà nước ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Bởi vì bên cạnh những mặt tích cực 
của kinh tế thị trường như: năng suất lao động tăng nhanh công nghệ sản xuất không 
ngừng được cải tiến, hàng hoá sản xuất ra nhiều, thu nhập quốc dân tăng. thì cơ chế 
thị trường cũng nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực cần giải quyết như: lạm phát, thất 
nghiệp, khủng hoảng, tệ nạn xã hội. Do vậy Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế để 
đảm bảo cho sự phát triển kinh tế có hiệu quả, công bằng ổn định.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 31 trang
31 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2219 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 LUẬN VĂN: 
Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền 
kinh tế thị trường định hướng Xã hội 
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay 
Lời nói đầu 
 Xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp vô cùng khó khăn vì kinh tế là cơ sở của 
xã hội. Đất nước ta trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội phải xây dựng một nền kinh 
tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp. 
Lịch sử phát triển kinh tế loài người từ trước đến nay đã trải qua rất nhiều hình thái 
kinh tế xã hội, nổi bật và rõ nét đó là hình thái công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, 
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Trong tất cả các hình thái kinh tế đó 
chưa có một hình thái kinh tế nào có một cơ chế quản lý, điều hành kinh tế một cách 
phù hợp và hợp lý nhất từ việc phát triển kinh tế chỉ dựa vào kinh tế thị trường để giải 
quyết vấn đề cơ bản của nền kinh tế cho đến việc chỉ dựa vào tổ chức quản lý điều 
hành của Nhà nước để phát triển kinh tế. Để góp phần vào sự lựa chọn cơ chế tổ chức 
quản lý để phát triển kinh tế cho phù hợp, đặc biệt là giai đoạn Việt Nam hiện nay đề 
tài: “Vai trò kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội 
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay ”. Đó là sự kết hợp hài hoà tương hỗ lẫn nhau giữa 
“Bàn tay vô hình” và “Bàn tay hữu hình”. Nói một cách khác đó là sự kết hợp giữa sự 
quản lý của Nhà nước và cơ chế thị trường để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát 
triển ở mức cao nhất, đồng thời hạn chế và khắc phục được những hạn chế và hậu quả 
xã hội một cách có hiệu quả nhất. 
 Nền kinh tế nước ta đang ở vào giai đoạn đặc biệt của sự phát triển, đó là bước 
ngoặt trong quá trình chuyển từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị 
trường có sự quản lý của Nhà nước. Như chúng ta đã biết, trong thời đại ngày nay 
không có nền kinh tế thị trường thuần tuý ở bất cứ nước nào trên thế giới, không có 
một nền kinh tế nào chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường mà không có sự quản lý của 
Nhà nước ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Bởi vì bên cạnh những mặt tích cực 
của kinh tế thị trường như: năng suất lao động tăng nhanh công nghệ sản xuất không 
ngừng được cải tiến, hàng hoá sản xuất ra nhiều, thu nhập quốc dân tăng... thì cơ chế 
thị trường cũng nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực cần giải quyết như: lạm phát, thất 
nghiệp, khủng hoảng, tệ nạn xã hội... Do vậy Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế để 
đảm bảo cho sự phát triển kinh tế có hiệu quả, công bằng ổn định. Đặc biệt nền kinh tế 
nước ta đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa càng không thể thiếu sự 
quản lý của Nhà nước. Trong báo cáo của ban chấp hành Trung ương khoá VI do Tổng 
Bí thư Nguyễn Văn Linh trình bày tại Đại hội VII có viết: “ Để phát huy to lớn tiềm 
năng kinh tế nhiều thành phần phải tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao 
cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế 
hoạch, chính sách và các công cụ khác.Vai trò của Nhà nước rất quan trọng trong việc 
tạo lập các cân đối vĩ mô, điều tiết thị trường, ngăn ngừa và xử lý những đột biến xấu, 
tạo môi trường bình thường cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo sự thống nhất giữa tăng 
trưởng kinh tế với công bằng xã hội ”. 
 Sau một thời gian học tập, tìm tòi và nghiên cứu môn kinh tế chính trị, em đã thu 
lượm được những kiến thức nhất định. Trong bài viết này, em xin trình bày những vấn 
đề sau: 
 _ Tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước . 
 _ Mục tiêu và các chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước . 
 _ Các công cụ và biện pháp đổi mới tăng cường vai trò quản lý kinh tế của Nhà 
nước ta hiện nay. 
 _ Quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam. 
nội dung 
 Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước bao giờ cũng có nguồn gốc từ nguyên nhân 
kinh tế. Bất kỳ một hoạt động nào của Nhà nước cũng là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự 
vận động của nền kinh tế . 
I_ Tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. 
1.1_ Sự hình thành và phát triển vai trò kinh tế của Nhà nước. 
 Nhà nước là công cụ của giai cấp thống trị được sử dụng để duy trì trật tự xã hội 
cho phù hợp với lợi ích của nó. Chức năng ban đầu của Nhà nước là quản lý hành 
chính bao gồm các lĩnh vực chủ yếu như : 
 Chức năng đối ngoại: quản lý lãnh thổ, thiết lập quan hệ bàn giao với các nước 
láng giềng . 
 Chức năng đối nội: quản lý trật tự xã hội, sắp xếp mối quan hệ giữa các cá 
nhân, các giai cấp, các tầng lớp, các cộng đồng dân tộc sao cho phù hợp với ý chí của 
giai cấp đã sản sinh ra nó. 
 Để thực hiện hai chức năng này, các Nhà nước đều phải có những cơ sở kinh tế 
nhất định. Trong lịch sử phát triển các Nhà nước đã có các phương pháp khác nhau để 
nắm giữ kinh tế nhằm phục vụ các chức năng kinh tế của mình. 
 Lịch sử đã chứng minh chức năng kinh tế của Nhà nước được phôi thai ngay từ 
buổi ban đầu khi Nhà nước mới chỉ vừa xuất hiện. Sau đó mới được nhận thức và ứng 
dụng vào thực tiễn quản lý kinh tế xã hội. Trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì 
vai trò kinh tế của Nhà nước cũng biểu hiện ở mức độ khác nhau. 
 Trong thời đại chiếm hữu nô lệ, Nhà nước chủ nô là kiểu Nhà nước đầu tiên 
trong lịch sử đã trực tiếp dùng quyền lực của mình can thiệp vào việc phân phối của 
cải được sản xuất ra. Trong giai đoạn này, của cải được sản xuất ra bởi những người 
nô lệ dưới sự chỉ huy, điều khiển quá trình sản xuất của giai cấp chủ nô, nhưng khối 
lượng của cải ấy không được phân phối mà bị giai cấp chủ nô chiếm đoạt bằng các thủ 
đoạn bạo lực. Các thủ đoạn bạo lực phi kinh tế ở đây được sử dụng để làm công cụ 
chiếm đoạt cưỡng bức kinh tế. 
Trong thời đại phong kiến, ngoài việc can thiệp vào việc phân phối của cải, Nhà 
nước phong kiến còn đứng ra tập hợp lực lượng nhân dân xây dựng kết cấu hạ tầng 
cho sản xuất nông nghiệp, khuyến khích di dân đi mở mang các vùng đất mới, đề ra 
các chính sách ruộng đất thích hợp với từng thời kỳ... nhằm phát triển kinh tế. Nhìn 
chung các hoạt động này diễn ra một cách tự phát. Trong sự khác biệt với các Nhà 
nước phong kiến phương Tây, chức năng quản lý kinh tế được các Nhà nước phong 
kiến phương Đông nhận thức sớm hơn. ở Trung Quốc, Mạnh Tử đã nói trong học 
thuyết của mình là: Chính sách kinh tế Nhà nước phong kiến phải hướng vào làm giàu 
cho dân. Dân giàu thì nước mới mạnh. Tư tưởng kinh tế này rất tương đồng với tư 
tưởng kinh tế của Adam Smith, mặc dù hai nhà tư tưởng sống ở hai thời kỳ cách nhau 
hàng nghìn năm. Họ đều cho rằng về bản chất, lợi ích cá nhân thống nhất với lợi ích 
toàn xã hội, mọi người trong khi làm giàu cho mình thì cũng đồng thời làm giàu cho 
xã hội, từ đó đặt lên vai trò Nhà nước phải điều hoà, sắp xếp các quan hệ lợi ích sao 
cho sự xung đột lợi ích cá nhân không làm thủ tiêu lợi ích xã hội mà ngược lại phải 
thúc đẩy lợi ích xã hội. ở Việt Nam tư tưởng Nhà nước can thiệp vào nền kinh tế cũng 
được hình thành rất sớm như: triều đại nhà Lý kiểm soát tất cả các thái ấp, bảo vệ chế 
độ sở hữu Nhà nước về ruộng đất, Nhà Hồ ban hành chính sách hạn điền, hạn nô, Nhà 
Lê ban hành chế độ quân điền... 
Trong thời đại hình thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản (từ thế kỷ XV), 
dưới sự hỗ trợ của công cụ bạo lực Nhà nước tư bản non trẻ đã thực hiện phương thức 
tích luỹ nguyên thuỷ để giúp cho giai cấp tư sản cần có sự hỗ trợ của Nhà nước. Chính 
vì vậy vai trò kinh tế của Nhà nước tư sản ngày càng được nâng cao. 
Trước hết Nhà nước tư bản đã thực hiện một chính sách tiền tệ hết sức nghiêm 
ngặt, họ tìm mọi cách tích luỹ tiền tệ, không cho tiền chạy ra nước ngoài. Nhà nước 
của các nước tư bản trong giai đoạn này đã đề ra luật buộc các thương nhân nước 
ngoài không được mang tiền ra khỏi nước họ. Nhà nước còn qui định những nơi khác 
được phép buôn bán để dễ dàng cho việc kiểm tra, kiểm soát . 
Trong chính sách ngoại thương họ dùng hàng rào thuế quan bảo hộ, đánh thuế 
nhập khẩu cao và thuế nhập khẩu các hàng sản xuất ở trong nước thấp... Nhờ các chính 
sách đó các nước tư bản đã tích luỹ được một lượng của cải và tiền tệ đáng kể. Vì vậy 
đầu thế kỷ 18, giai cấp tư sản tập trung phát triển mạnh lĩnh vực sản xuất. Nhờ áp dụng 
các kỹ thuật và công nghệ mới, nền sản xuất ở các nước tư bản phát triển rất nhanh, 
các nhà tư bản đua nhau phát triển các ngành nghề mới và mở rộng qui mô sản xuất. 
Tự do cạnh tranh đã trở thành đòi hỏi cấp thiết trong đời sống kinh tế của các nươc 
này. Từ hỏi đó tất yếu nảy sinh cơ chế thị trường_ kinh tế thị trường là trình độ phát 
triển cao của kinh tế hàng hoá. 
Từ sau năm 1917, với sự ra đời của liên bang Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô 
viết và sau năm 1945 là sự ra đời hệ thống XHCN thế giới, trong nền kinh tế thế giới 
còn có nền kinh tế chỉ huy vận động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong cơ chế 
này, Nhà nước là người quản lý trực tiếp mọi hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền 
kinh tế bằng kế hoạch và thông qua một loạt các chỉ tiêu pháp lệnh và chỉ tiêu gián 
tiếp. Trong một thời gian dài, kiểu quản lý này đã làm sơ cứng nền kinh tế, do đó các 
nước theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung như Liên Xô và các nước XHCN đã phải 
chuyển sang cơ chế thị trường và đã đổi mới cách thức quản lý của Nhà nước. 
Đầu thập kỷ 90, sự sụp đổ của Liên Xô cũ và Đông Âu lại lần nữa góp phần 
chứng minh cho hướng đi sai lệch khỏi quỹ đạo kinh tế thị trường. Việc đề cao quá vai 
trò Nhà nước đã khiến cho nền kinh tế bước đi khập khiễng, thiếu năng động và hiệu 
quả. Điều đó cho thấy vai trò kinh tế của Nhà nước là không thể phủ nhận song sẽ rất 
sai lầm khi tuyệt đối hoá nó. 
Chính vì vậy sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thị trường luôn luôn là 
vấn đề được quan tâm và gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học, từ đó xuất hiện những 
quan điểm không giống nhau về vai trò kinh tế của Nhà nước. Theo một số nhà kinh tế 
học thì để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển có tính kế hoạch cân đối, Nhà nước phải 
đóng vai trò trung kiện kinh tế, can thiệp sâu sắc và rộng rãi vào kinh tế quốc dân ở 
tầm vĩ mô và vi mô. 
Theo chủ nghĩa Mác: “Không thể cải biên kinh tế xã hội nếu thiếu vai trò kinh 
tế của Nhà nước, sự ra đời vai trò kinh tế của Nhà nước đã thúc đẩy các điều kiện kinh 
tế xã hội phát triển và hoàn thiện”. Các Mác coi quyền lực của Nhà nước như “vai trò 
bà đỡ cho xã hội cũ thai nghén xã hội mới”. Lê Nin chỉ rõ Nhà nước XHCN có vai trò 
kinh tế đặc biệt, không còn là bộ máy ăn bám đứng trên quá trình sản xuất mà nó phải 
chuyển sang tổ chức thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế quốc dân. 
Theo quan điểm của Paul Samuelson: “Cơ chế thị trường định giá cả và sản 
lượng trong nhiều lĩnh vực, trong khi đó Chính phủ điều tiết thị trường bằng các 
chương trình thuế, chi tiêu và luật lệ”. Các nền kinh tế hiện đại chỉ có thể phát triển 
được khi sử dụng cơ chế hỗn hợp để điều khiển nền kinh tế. Cơ chế đòi hỏi Nhà nước 
phải can thiệp vào nền kinh tế theo quy luật của thị trường mà Nhà nước cần phải can 
thiệp vào các quá trình của nó, định hướng nó đến mục tiêu mong muốn, nhưng sự can 
thiệp của Nhà nước chỉ thành công khi bản thân Nhà nước cũng phải tuân theo những 
quy luật của thị trường. 
Theo Jonh Mefnand Keynes: Nguyên nhân đưa đến khủng hoảng kinh tế và thất 
nghiệp là do Nhà nước không can thiệp vào kinh tế hoặc là có can thiệp nhưng chính 
sách kinh tế lại lạc hậu, bảo thủ. Để ngăn chặn những khủng hoảng kinh tế và thất 
nghiệp thì Nhà nước phải can thiệp vào các quá trình kinh tế thông qua việc sử dụng 
các công cụ tiền tệ tài chính... 
Có thể nói rằng, những nhà kinh tế học đều có những quan điểm không giống 
nhau về vai trò kinh tế của Nhà nước. Nhưng họ đều có chung quan điểm là vai trò của 
Nhà nước là quản lý vĩ mô nền kinh tế, điều tiết nền kinh tế để khắc phục những 
nhược điểm của nền kinh tế quốc dân, tạo môi trường thuận lợi cho nền kinh tế phát 
triển. 
1.2_Cơ chế thị trường và nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. 
Quá trình phát triển sản xuất của xã hội loài người từ trước tới nay đã trải qua 
những thời kỳ sau: 
_ Nền kinh tế tự cung tự cấp . 
_ Nền kinh tế hàng hoá. 
_ Nền kinh tế thị trường. 
Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nó ra đời và 
phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá. “Thị 
trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất hàng hoá. Những vấn đề cơ bản 
của nền sản xuất xã hội là sản xuất mặt hàng gì, số lượng bao nhiêu và bằng phương 
pháp nào đều phải thông qua thị trường. Vì vậy thị trường đóng vai trò hoạt động và 
phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả ”. 
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hoá dưới sự tác động 
khách quan của các quy luật kinh tế vốn có. Cơ chế thị trường chính là một hình thức 
tổ chức kinh tế, trong đó những người tiêu dùng và các nhà kinh doanh tác động lẫn 
nhau qua thị trường để giải quyết những vấn đề trung tâm của sản xuất xã hội. 
Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo các quy luật của thị trường, 
trong đó quy luật giá trị đóng vai trò chi phối và được biểu hiện bằng quan hệ cung cầu 
trên thị trường. Nền kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của nền kinh tế hàng 
hoá, nó nằm trong tiến trình phát triển lịch sử khách quan về kinh tế của xã hội loài 
người. Do vậy, nền kinh tế thị trường cũng có những ưu thế và khuyết tật của nó. 
a_ Những ưu thế của nền kinh tế thị trường thể hiện: 
Thứ nhất, thúc đẩy sản xuất và gắn sản xuất với tiêu thụ_thực hiện mục tiêu của 
sản xuất. Do đó, người ta tìm mọi cách rút ngắn chu kỳ sản xuất, thực hiện tái sản xuất 
mở rộng, áp dụng nhanh chóng sản xuất_khoa học_công nghệ và quay nhanh tiền vốn, 
đạt tới lợi nhuận tối đa. 
Thứ hai, thúc đẩy và đòi hỏi các nhà sản xuất năng động thích nghi với các điều 
kiện biến động của thị trường. Thay đổi mẫu mã sản xuất, tìm mặt hàng mới và thị 
trường tiêu thụ, mở rộng quan hệ trong kinh doanh, phá thế độc quyền và khép kín 
trong một đơn vị kinh doanh, tìm cách đạt tới lợi nhuận tối đa. 
Thứ ba, thúc đẩy sự tiến bộ khoa học_công nghệ đưa nhanh vào sản xuất, kích 
thích tăng năng suất lao động, nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất và nâng cao chất 
lượng sản phẩm, hạ giá thành, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt của khách hàng và thị 
trường. 
Thứ tư, thúc đẩy quá trình tăng trưởng dồi dào sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, 
thúc đẩy và kích thích sản xuất hàng hoá phát triển, đề cao trách nhiệm của nhà kinh 
doanh với khách hàng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. 
Thứ năm, đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất. Tích tụ và tập trung 
sản xuất là hai con đường để mở rộng quy mô sản xuất. Một mặt, các đơn vị chủ thể 
sản xuất kinh doanh làm ăn giỏi, có hiệu quả cao cho phép tích tụ, mở rộng qui mô sản 
xuất. Mặt khác, do quá trình cạnh tranh làm cho sản xuất được tập trung vào các đơn 
vị kinh tế thực sự đứng được trên thị trường, làm ăn có hiệu quả cao, đồng thời loại bỏ 
những đơn vị làm ăn kém hiệu quả. Chính quá trình cạnh tranh kinh tế là động lực thúc 
đẩy tích tụ và tập trung sản xuất. 
b_ Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường thể hiện: 
 Thứ nhất nền kinh tế thị trường mang tính tự phát, tìm kiếm lợi nhuận bằng bất 
kỳ giá nào, không đi đúng hướng của kế hoạch Nhà nước, mục tiêu về phát triển kinh 
tế vĩ mô của nền kinh tế. Tính tự phát của thị trường còn dẫn đến tập trung hoá cao độ, 
sinh ra độc quyền, thủ tiêu cạnh tranh, làm giảm hiệu quả chung và tính tự điều chỉnh 
của nền kinh tế. 
 Thứ hai, xã hội phát sinh tiêu cực, tệ nạn gắn liền với hiện trạng kinh tế sa sút, 
gây rối loạn xã hội. Nhà kinh doanh thường tìm mọi thủ đoạn, mánh khoé làm hàng 
giả, buôn lậu, trốn thuế, lừa đảo... không từ một thủ đoạn nào, dù là dơ bẩn nhất để thu 
lợi nhuận tối đa. 
 Thứ ba, vì lợi ích và lợi nhuận riêng biệt, dẫn đến sự sử dụng bừa bãi, tàn phá 
tài nguyên và huỷ diệt môi trường sinh thái. 
1.3_ Tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. 
 Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo trên đất nước ta hiện nay 
đang diễn ra với bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều biến động. Việt Nam đã 
bước vào thời kỳ mới với quan hệ quốc tế cởi mở, đa phương và đa dạng. 
 Vai trò quản lý của Nhà nước bắt nguồn từ sự cần thiết phải phối hợp hoạt động 
lao động chung và do tính chất xã hội hoá của sản xuất quy định. Lực lượng sản xuất 
càng phát triển, trình độ xã hội hoá sản xuất càng cao thì phạm vi thực hiện vai trò này 
càng rộng và mức độ đòi hỏi của nó càng chặt chẽ và nghiêm ngặt. Nền kinh tế hàng 
hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường là bước phát triển tất yếu của 
kinh tế tự cung tự cấp. Trong thời kỳ quá độ, nền kinh tế có nội dung rất phong phú, 
bao gồm những trình độ và khuynh hướng phát triển khác nhau trong một kết cấu gồm 
nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nhiều chủ thể kinh tế khác nhau, vừa mang tính 
kinh tế cổ truyền, vừa chứa đựng những yếu tố của nền kinh tế hiện đại, phát triển theo 
định hướng XHCN với vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Đó là thời kỳ phải giải 
quyết hai mâu thuẫn chính: Thứ nhất là mâu thuẫn giữa nền kinh tế chậm phát triển 
với yêu cầu phải phát triển nền kinh tế hiện đại bằng quá trình đẩy nhanh phát triển 
nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Thứ hai là mâu thuẫn giữa những yếu tố 
nhanh nhạy của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với những yếu tố tự giác của quản 
lý vĩ mô, định hướng phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. 
 Với tư cách là cơ quan đại diện cho lợi ích của nhân dân và là chủ đại diện sở 
hữu toàn dân, Nhà nước quản lý nền kinh tế đó, thực hiện chế độ dân chủ trong mọi 
khâu, mọi mặt của quá trình tái sản xuất. Tuỳ theo trình độ phát triển của lực lượng sản 
xuất, mức độ đạt được của sự xã hội hoá trong mỗi nước, mỗi thời kỳ mà giữa chúng 
có quan hệ tỷ lệ nhất định làm cho nền kinh tế phát triển thăng bằng ổn định, khai thác, 
tận dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài. Sự phát triển không 
ngừng của lực lượng sản xuất, sự tác động thường xuyên của các điều kiện tự nhiên, xã 
hội, chính trị... làm cho các quan hệ tỷ lệ đó luôn biến động. Khi các quan hệ kinh tế 
quốc tế được hình thành và phát triển thì các quan hệ kinh tế trong và ngoài nước có 
thể di chuyển phù hợp hay không? Quy mô và có cấu kinh tế có thể dịch chuyển theo 
hướng tiến bộ, tối ưu hay lạc hậu? Như vậy có thể nói vận mệnh của nền kinh tế quốc 
gia không chỉ phụ thuộc vào các quan hệ bên trong mà còn phụ thuộc vào các quan hệ 
bên ngoài, vào thị trường khu vực, thị trường quốc tế. Tình hình đó đặt nên vai Nhà 
nước, dân tộc nhiệm vụ không chỉ là người bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia 
mà còn là người hiểu biết quy luật vận động và phát triển của nền sản xuất xã hội, có 
khả năng sử dụng các đòn bẩy kinh tế, thể chế hoá các chủ trương, chính sách kinh tế 
thành hệ thống các luật lệ, các quy chế đồng bộ để trực tiếp tác động, khống chế, điều 
tiết các hoạt động đối ngoại, định hướng sự phát triển của các ngành, các vùng, các 
lĩnh vực, các thành phần kinh tế để đảm bảo yêu cầu thăng bằng, cân đối trong sự phát 
triển do chính các quy luật khách quan của đời sống kinh tế, xã hội quy định. 
 Từ đó ta có thể khẳng định rằng: tính tất yếu khách quan của vai trò quản lý vĩ 
mô của Nhà nước Việt Nam là do ưu khuyết điểm của cơ chế thị trường và thực trạng 
của nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra còn do yêu cầu thăng bằng cân đối trong sự phát 
triển của kinh tế mà đòi hỏi phải có vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. Trong diễn 
văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII do đồng chí Lê Đức Anh, Uỷ 
viên Bộ chính trị ban chấp hành Trung ương khoá VII, đọc ngày 28/6/1996 có đoạn: 
“Xây dựng nền kinh tế hành hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường 
phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN”. 
 Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng trong điều kiện kinh tế thị trường 
nước ta còn ở giai đoạn thấp, hệ thống pháp luật chưa hoàn hảo, những ưu thế chưa thể 
hiện rõ nét, những