Cùng với nền kinh tế của đất nước trong 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới
vừa qua, lĩnh vực chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp
Việt Nam chúng ta đã có những bước tiến đáng phấn khởi Điều này rất có ý
nghĩa,bởi chất lượng sản phẩm vốn là điểm yếu kém kéo dài nhiều năm ở nước ta
trong thời kỳ bao cấp. Tuy nhiên trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện
nay cùng với quá trình mở cửa, với sự phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật,công
nghệ hiện đại và xu thế hội nhập khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế, sự cạnh tranh
trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt. Các doanh nghiệp Việt Nam đang
phải đối đầu với những thử thách to lớn như : Sức ép của hàng nhập, của người tiêu
dùng trong và ngoài nước. Môi trường kinh doanh mới mẻ đầy biến động. Cung
thường xuyên vượt cầu. Hàng rào thuế quan dần bị xoá bỏ.Những thị trường quan
trọng như thị trường Châu Âu, thị trường Mỹ, thị trường Nhật Bản lại hết sức nghiêm
ngặt về thủ tục và tiểu chuẩn chất lượng sản phẩm. Vì vậy vấn đề chất lượng sản
phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng cấp
bách và trở thành vấn đề ưu tiên hàng đầu. Như ông Hoàng Mạnh Tuấn nguyên Tổng
cục phó Tổng Cục Tiêu Chuẩn Đo Lường Chất Lượng đã nói: "chất lượng sản phẩm
ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại trong cạnh
tranh, quyết định sự tồn tại, hương vong trong từng doanh nghiệp nói riêng cũng như
sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế đất nước nói chung".
Với sự hấp dẫn và tầm quan trọng mang tính chiến lược đó. Em chọn"Vấn đề
chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay" làm đề tài cho đề án của mình.
34 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2630 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN:
Vấn đề chất lượng sản phẩm và
quản lý chất lượng trong các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay
Lời nói đầu
Cùng với nền kinh tế của đất nước trong 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới
vừa qua, lĩnh vực chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp
Việt Nam chúng ta đã có những bước tiến đáng phấn khởi Điều này rất có ý
nghĩa,bởi chất lượng sản phẩm vốn là điểm yếu kém kéo dài nhiều năm ở nước ta
trong thời kỳ bao cấp. Tuy nhiên trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện
nay cùng với quá trình mở cửa, với sự phát triển như vũ bão của nền kỹ thuật,công
nghệ hiện đại và xu thế hội nhập khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế, sự cạnh tranh
trên thị trường sẽ ngày càng gay gắt quyết liệt. Các doanh nghiệp Việt Nam đang
phải đối đầu với những thử thách to lớn như : Sức ép của hàng nhập, của người tiêu
dùng trong và ngoài nước. Môi trường kinh doanh mới mẻ đầy biến động. Cung
thường xuyên vượt cầu. Hàng rào thuế quan dần bị xoá bỏ.Những thị trường quan
trọng như thị trường Châu Âu, thị trường Mỹ, thị trường Nhật Bản lại hết sức nghiêm
ngặt về thủ tục và tiểu chuẩn chất lượng sản phẩm. Vì vậy vấn đề chất lượng sản
phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam đang ngày càng cấp
bách và trở thành vấn đề ưu tiên hàng đầu. Như ông Hoàng Mạnh Tuấn nguyên Tổng
cục phó Tổng Cục Tiêu Chuẩn Đo Lường Chất Lượng đã nói: "chất lượng sản phẩm
ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định sự thắng bại trong cạnh
tranh, quyết định sự tồn tại, hương vong trong từng doanh nghiệp nói riêng cũng như
sự thành công hay tụt hậu của nền kinh tế đất nước nói chung".
Với sự hấp dẫn và tầm quan trọng mang tính chiến lược đó. Em chọn"Vấn đề
chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay" làm đề tài cho đề án của mình.
Phần I
Chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp thời
kỳ kế hoạch hoá tập trung
I. Quan niệm về chất lượng sản phẩm, nội dung, phương pháp quản lý
chất lượng và thực trạng chất lượng sản phẩm thời kỳ bao cấp.
1. Quan niệm về chất lượng sản phẩm.
a. Quan niệm.
Có nhiều cách quan niệm về chất lượng sản phẩm bởi xuất phát từ những góc
độ nhìn nhận sản phẩm khác nhau như: Quan niệm theo cách tiếp cận sản phẩm,
Quan niệm dưới góc độ sản xuất hoặc quan niệm dưới góc độ người tiêu dùng. Song
thay vì tiếp cận từ phía khách hàng, trong suốt thời kỳ bao cấp chúng ta lại quan niệm
chất lượng sản phẩm từ góc độ kỹ thuật.Theo đó chất lượng sản phẩm là mức độ chấp
hành các yêu cầu kỹ thuật hay sự tuân thủ các quy trình kỹ thuật, các thông số trong
thiết kế.
b. Hậu quả của quan niệm.
Cách quan niệm về chất lượng sản phẩm như trên,dẫn tới thực tế chất lượng
sản phẩm chỉ được coi là một vấn đề của sản xuất chứ không phải là vấn đề của kinh
doanh và chất lượng sản phẩm đươc hiểu là chất lượng của thành phẩm cuối cùng.
Như vậy, cách tiếp cận đó không phải là cách tiếp cận theo quá trình và hệ thống.
Điều đó dẫn đến hậu quả là chất lượng sản phẩm không được chú trọng ngay từ đầu.
Sự lãng phí do chế phẩm, do xuống cấp sản phẩm... là rất lớn. Chi phí do sai hỏng rất
cao .Thậm chí ngay từ khâu nghiên cứu và thiết kế sản phẩm. Các quan niệm đó cũng
dẫn tới cách quản lý chất lượng thụ động là sa vào kiểm tra loại bỏ sản phẩm sai
hỏng. Chứ không phát hiện và giải quyết được vấn đề một cách chủ động đồng thời
không thúc đẩy được quá trình cải tiến chất lượng sản phẩm.
2. Nội dung phương pháp quản lý chất lượng trong thời kỳ bao cấp.
Trong thời kỳ này, các doanh nghiệp ở nước ta là các doanh nghiệp quốc
doanh và hợp tác xã.Hoạt động quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp này chịu
sự chi phối của cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Quản lý chất lượng trong các doanh
nghiệp được tiến hành trên tinh thần của nghị định 159/TTg về công tác quản lý chất
lượng sản phẩm và hàng hoá.
a.Nội dung quản lý
Nội dung quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp là cụ thể hoá các chỉ tiêu
pháp lệnh về chất lượng của mình thành các kế hoạch sản xuất sau đó áp đặt xuống
các phân xưởng. Thứ hai là đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về ý nghĩa của chất
lượng sản phẩm nhằm tạo sự chuyển biến về nhận thức, tư tưởng của người lao động.
Thứ ba là đẩy mạnh công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm. Thành lập các phòng
KCS trong các doanh nghiệp. Thứ tư là xây dựng và đăng ký các tiêu chuẩn chất
lượng.
b. Phương pháp quản lý
Phương pháp quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ
bao cấp cơ bản là sử dụng các mệnh lệnh hành chính và kết hợp phương pháp tuyên
truyền giáo dục.
c.hậu quả của nội dung và phương pháp quản lý
nội dung và phương pháp quản lý trên dẫn đến thực tế trong các doanh nghiệp
sau:
* Cơ quan chỉ đạo của các doanh nghiệp thường chỉ nêu lên yêu cầu mong
muốn, có khi áp đặt về chất lượng. Nhưng thường không đầu tư thích đáng, không
tạo được những điều kiện vật chất, kỹ thuật tương ứng, để giải quyết những vấn đề
tồn tại của chất lượng.
* Người lãnh đạo các doanh nghiệp thường "khoán" cho các cán bộ kỹ thuật
bộ phận kỹ thuật hoặc bộ phận kiểm tra chất lượng tiến hành các công tác quản lý
chất lượng với tinh thần được đến đâu hay đến đó ít quan tâm chỉ đạo công tác.
* Công tác đăng ký chất lượng đã phát huy tốt tác dụng ban đầu nhưng do
thiếu thường xuyên cải tiến nên ngày càng kém hiệu quả.
Mặt khác trong điều kiện nền sản xuất lạc hậu, sản xuất không đủ đáp ứng nhu
cầu của người tiêu dùng. Vấn đề chính của sản xuất là đáp ứng được số lượng còn
chất lượng chưa được đưa lên hàng đầu.Người sản xuất và người tiêu dùng không có
mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Người sản xuất không phải chịu trách nhiệm trực tiếp
về những sản phẩm của mình làm ra. Cũng không được hưởng những lợi ích tương
xứng khi làm ra những sản phẩm tốt. Chủ nghĩa bình quân đó đã triệt tiêu động lực
cần thiết để cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm.
3. Thực trạng chất lượng sản phẩm thời kỳ bao cấp.
Tình hình quản lý chất lượng sản phẩm trên dẫn tới kết quả là tình trạng suy
giảm về chất lượng hàng hoá nối lên một cách phổ biến và trầm trọng vào những
năm cuối của thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80. Hàng hoá có giá thành cao. Mặt hàng đơn
điệu, nghèo nàn về chủng loại. Thô kém về hình thức, mẫu mã. Chất lượng lại thường
xuyên biến động. Người tiêu dùng thiếu tin tưởng vào hàng hoá trong nước.Thửc
trạng này là một trong những nguyên làm cho nền kinh tế Việt Nam lâm vào cuộc
khủng hoảng cuối thập kỷ 80. Điều đó đòi hỏi phải có sự đổi mới đúng đắn, toàn
diện về nhận thức và phương pháp tiến hành trong quản lý chất lượng mới có thể đưa
các doanh nghiệp nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung thoát khỏi khủng hoảng
và phát triển đi lên.
Phần II
Tình hình chất lượng sản phẩm và quản lý chất lượng trong các doanh
nghiệp Việt Nam thời kỳ đổi mới
I. Sự đổi mới và hoàn thiện lý thuyết quản lý chất lượng trong các doanh
nghiệp.
Như phần I đã nói, thực trạng chất lượng sản phẩm và những khiếm khuyết
trong quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp Việt Nam thời kỳ bao cấp là do nhiều
nguyên nhân. Song một nguyên nhân rất quan trọng là do cơ sở lý thuyết về quản lý
chất lượng của chúng ta còn khiếm khuyết lạc hậu. Chính vì vậy, để nâng cao chất
lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam trước hết các doanh nghiệp và cơ
quan quản lý Nhà nước về chất lượng phải có được nhận thưc đúng đắn trong vấn đề
chất lượng. Sau đó chúng ta phải đổi mới và xây dựng được cơ sở lý thuyết quản lý
chất lượng khoa học, phù hợp với tình hình chất lượng sản phẩm và trình độ quản lý
chất lượng hiện tại của chúng ta.
Hoạt động quản lý chất lượng đã tồn tại cùng với quá trình sản xuất của con
người từ hàng nghìn năm nay. Song nó chỉ trở thành một hoạt động chức năng nằm
ngoài sản xuất khi nền sản xuất thủ công phát triển mạnh trong các công trường ở
Châu Âu. Quản lý chất lượng trong cac doanh nghiệp dã trải qua các giai đoạn từ
kiểm tra chất lượng rồi kiểm soát bằng thông kê,tới đảm bảo chất lượng, từ quản lý
cục bộ tới quản lý tổng hợp (TQM) và quản lý theo hệ thống (ISO 9000, HACCP).
Quá trình tiếp xúc, du nhập mạnh mẽ các phương thức quản lý chất lượng tiên
tiến của Tây Âu, Mỹ và Nhật Bản, cùng với sự kế thừa những điểm phù hợp trong
quản lý chất lượng thời bao cấp và những kinh nghiệm quý giá rút ra trong 15 năm
tực hiện kinh tế thị trường đã hình thành nên cơ sở lý thuyết toàn diện về quản lý chất
lượng của các doanh nghiệp Việt Nam. Có thể khái quát cơ sở lý thuyết đó như sau:
1. lý thuyết về chất lượng sản phẩm
a. Khái niệm.
Có nhiều quan điểm về chất lượng sản phẩm song có một số quan điểm cơ bản
sau:
- Quan điểm tiếp cận theo sản xuất: Chất lượng sản phẩm là những đặc trưng,
đặc tính kinh tế kỹ thuật nội tại phản ánh giá trị sử dụng và chức năng của sản phẩm
đó, đáp ứng những yêu cầu định trước của sản phẩm trong những điều kiện xác định
về kinh tế - xã hội.
- Quan điểm tiếp cận theo người tiêu dùng: Chất lượng sản phẩm là sự phù
hợp với nhu cầu, với mục đích sử dụng của người tiêu dùng.
- Quan điểm của ISO 9002: Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu,
những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của nó thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong
những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng sản phẩm mà người tiêu
dùng mong muốn.
- Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5841 - 1994 phù hợp với ISO/DIS 8402:
Chất lượng là một tập hợp các đặc tính của một thực thể làm cho thực thể đó có khả
năng thoả mãn những nhu cầu đã nêu ra và những nhu cầu tiềm ẩn.
b. Vai trò của sản phẩm.
Thực tế kinh doanh trong cơ chế thị trường cho thấy chất lượng sản phẩm có
vai trò ngày càng quan trọng và đang trở thành nhân tố quyết định sự tồn tại và phát
triển của các doanh nghiệp. Điều đó thể hiện qua các điểm sau:
- Chất lượng sản phẩm làm tăng khả năng cạnh tranh và thể hiện sức mạnh
cạnh tranh của doanh nghiệp đó.
- Chất lượng sản phẩm nâng cao vị thế của doanh nghiệp trên thương trường
nhờ đó uy tín của doanh nghiệp được đảm bảo. Đó chính là cơ sở quan trọng để
doanh nghiệp phát triển một cách bền vững và lâu dài.
- Chất lượng sản phẩm có ý nghĩa làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí
khi doanh nghiệp nâng một tỷ lệ chất lượng sản phẩm lên.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm có thể giúp cho người sử dụng tiết kiệm được
thời gian sức lực trong việc sử dụng vận hành và khai thác sản phẩm. Đây là một giải
pháp quan trọng tạo ra sự thống nhất lợi ích giữa người sản xuất và người tiêu dùng.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng để tăng khả năng xuất
khẩu và khẳng định vị trí của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung
trên thị trường thế giới. Do đó làm tăng khả năng trúng thầu của các doanh nghiệp.
b. Đặc điểm chất lượng.
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế, xã hội, công nghệ tổng hợp luôn
thay đổi theo thời gian và không gian phụ thuộc chặt chẽ vào môi trường và điều kiện
kinh doanh cụ thể trong từng thời kỳ.
Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất, đặc điểm riêng biệt nội tại của
bản thân sản phẩm. Những đặc tính đó phản ánh tính khách quan của sản phẩm thể
hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Những đặc tính khách quan này
phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm. Mỗi tính chất được
biểu thị bằng các chỉ tiêu cơ lý hoá nhất định cơ thể đo lường, đánh giá được. Vì vậy,
nói đến chất lượng phải đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn cụ thể. Đặc
điểm này khẳng định những sai lầm cho rằng chất lượng sản phẩm là các chỉ tiêu
không thể đo lường, đánh giá được.
Nói đến chất lượng sản phẩm là phải xem xét sản phẩm đó thoả mãn đến mức
độ nào nhu cầu của khách hàng. Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng
thiết kế và những tiêu chuẩn kỹ thuật đặt ra cho mỗi sản phẩm. ở các nước tư bản qua
phân tích thực tế chất lượng sản phẩm trong nhiều năm qua người ta đi đến kết luận
rằng chất lượng sản phẩm tốt hay xấu thì 75% phụ thuộc vào giải pháp thiết kế, 20%
phụ thuộc vào công tác kiểm tra kiểm soát và chỉ có 5% phụ thuộc vào kết quả
nghiệm thu cuối cùng.
Chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc thể hiện ở truyền thống tiêu dùng.
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, mỗi vùng đều có thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Một sản
phẩm có thể được xem là tốt ở nơi này nhưng lại là không tốt, không phù hợp với nơi
khác. Trong kinh doanh không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà
căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp. Chất
lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng.
Chất lượng sản phẩm thể hiện ở hai cấp độ và phản ánh hai mặt khách quan,
chủ quan hay còn gọi là hai loại chất lượng:
+ Chất lượng trong tuân thủ thiết kế thể hiện ở mức độ sản phẩm đạt được so
với tiêu chuẩn thiết kế đề ra. Khi sản phẩm sản xuất ra có những đặc tính kinh tế, kỹ
thuật càng gần với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượng càng cao, được phản ánh thông
qua các chỉ tiêu như tỷ lệ phế phẩm, sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế. Loại chất
lượng này phản ánh những đặc tính bản chất khách quan của s ản phẩm do đó liên
quan chặt chẽ đếnkhả năng cạnh tranh và chi phí.
+ Chất lượng trong sự phù hợp: Chất lượng phụ thuộc vào mức độ phù hợp
của sản phẩm thiết kế so với nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Mức độ phù
hợp càng cao thì chất lượng càng cao. Chất lượng này phụ thuộc vào mong muốn và
sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng vì vậy nó tác động mạnh mẽ đến khả năng
tiêu thụ của sản phẩm.
c. Những nhân tố tác động đến chất lượng sản phẩm.
* Nhóm nhân tố bên ngoài.
- Nhu cầu thị trường.
Nhu cầu là xuất phát điểm của quá trình quản lý chất lượng tạo lực hút định
hướng cho cải tiến và hoàn thiện chất lượng sản phẩm. Cơ cấu, tính chất, đặc điểm
và xu hướng vận động của nhu cầu tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Chất
lượng sản phẩm có thể được đánh giá cao ở thị trường nay nhưng lại không được
đánh giá cao ở thị trường khác. Điều đó đòi hỏi phải tiến hành nghiêm túc, thận trọng
của công tác nghiên cứu thị trường, phân tích môi trường kinh doanh, xác định chính
xác nhận thức của khách hàng, thói quen tuyền thống, phong tục, tập quán, văn hoá,
lối sống, mục đích sử dụng sản phẩm và khả năng thanh toán... nhằm đưa ra những
sản phẩm phù hợp với từng loại thị trường.
Thông thường khi mức sống xã hội còn thấp, sản phẩm khan hiếm thì yêu cầu
của người tiêu dùng chưa cao, người ta chưa quan tâm tới chất lượng sản phẩm.
Nhưng khi đời sống xã hội được cải thiện thì đòi hỏi về chất lượng snả phẩm sẽ nâng
cao, ngoài tính năng sử dụng còn có cả giá trị thẩm mỹ. Người tiêu dùng có thể chấp
nhận giá cao để có được những sản phẩm ưng ý.
Chính vì vậy, các nhà sản xuất phải sản xuất những sản phẩm có chất lượng đáp
ứng được nhu cầu thị trường. Lúc đó, việc nâng cao chất lượng sản phẩm mới đi
đúng hướng.
- Trình độ tiến bộ khoa học công nghệ
Trong thời đại ngày nay không có sự tiến bộ kinh tế, xã hội nào lại không gắn
liền với tiến bộ khoa hoa công nghệ trên thế giới. Bắt đầu từ cuộc cách mạng khoa
học lần thứ nhất, chủng loại và chất lượng sản phẩm không ngừng thay đổi với tốc độ
tương đối nhanh. Tiến bộ khoa học công nghệ có tác động như một lực đẩy tạo khả
năng đưa chất lượng sản phẩm không ngừng tăng lên. Nhờ khả năng to lớn của tiến
bộ khoa học công nghệ đã sáng chế ra những sản phẩm mới, tạo ra và đưa vào sản
xuất với công nghệ mới có các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cao hơn, thay thế nguyên liệu
mới tốt hơn và rẻ hơn, hình thành phương pháp và phương tiện kỹ thuật quản trị tiên
tiến góp phần giảm chi phí đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm, rút ngắn chu kỳ
sống sản phẩm, chu kỳ sản xuất kinh doanh.
- Cơ chế quản lý.
Khả năng cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm của mỗi doanh nghiệp phụ
thuộc rất chặt chẽ vào cơ chế quản lý của mỗi nước. Cơ chế quản lý vừa là môi
trường vừa là điều kiện cần thiết tác động đến phương hướng, tốc độ cải tiến và nâng
cao chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp. Kế hoạch hoá phát triển kinh tế cho
phép xác định trình độ chất lượng và mức độ chất lượng tối ưu, xác định cơ cấu mặt
hàng, xây dựng chiến lược con người trong tổ chức phù hợp với đường lối phát triển
chung.
Hệ thống giá cả cho phép các doanh nghiệp xác định đúng giá trị sản phẩm của
mình, doanh nghiệp có thể xây dựng các chiến lược cạnh tranh và tìm mọi cách nâng
cao chất lượng sản phẩm mà không sợ bị chèn ép về giá.
Chính sách đầu tư quyết định quy mô và hướng phát triển sản xuất. Dựa vào đó
các nhà sản xuất có kế hoạch đầu tư cho công nghệ, huấn luyện đào tạo để nâng cao
năng suất lao động và chất lượng sản phẩm.
Chính sách thương mại về chất lượng, tổ chức hệ thống quản lý chất lượng đều
có những vai trò nhất định đối với chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp.
Tóm lại, thông qua cơ chế, chính sách quản lý vĩ mô của Nhà nước tạo điều
kiện kích thích :
- Tính độc lập, tự chủ sáng tạo trong cải tiến chất lượng sản phẩm ở các doanh
nghiệp.
- Hình thành môi trường thuận lợi cho việc huy động công nghệ mới, tiếp thu
ứng dụng những phương pháp quản trị chất lượng hiện đại.
- Sự cạnh tranh công bằng, lành mạnh, xoá bỏ sức ỳ và tâm lý ỷ lại, không
ngừng phát huy sáng kiến cải tiến hoàn thiện chất lượng sản phẩm.
* Nhóm nhân tố bên trong.
- Lực lượng lao động trong doanh nghiệp.
Đây là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Cho dù trình
độ công nghệ có hiện đại đến đâu nhân tố con người vẫn được coi là nhân tố căn bản
nhất tác động đến chất lượng các hoạt động sản xuất sản phẩm và các hoạt động dịch
vụ. Trình độ chuyên môn, tay nghề kinh nghiệm, ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật,
tinh thần hiệp tác phối hợp, khả năng thích ứng với sự thay đổi, nắm bắt thông tin của
mọi thành viên trong doanh nghiệp tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Sự
thành công hay thất bại của doanh nghiệp trước hết phụ thuộc vào chất lượng của tập
thể những người lao động mà đứng đầu là người lãnh đạo của doanh nghiệp.
Quan tâm đầu tư phát triển và không ngừng nâng cao trách nhiệm và trình độ
nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng trong quản lý chất lượng của các doanh
nghiệp. Đó cũng là con đường quan trọng nhất nâng cao khả năng cạnh tranh về chất
lượng của mỗi quốc gia.
- Khả năng về công nghệ máy móc thiết bị của doanh nghiệp.
Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản có
tác động mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm. Mức độ chất lượng sản phẩm trong mỗi
doanh nghiệp phụ thuộc rấta lớn vào trình độ hiện đại, cơ cấu đồng bộ, tình hình bảo
dưỡng duy trì khả năng làm việc theo thời gian của máy móc thiết bị công nghệ, đặc
biệt là những doanh nghiệp tự động hoá cao, dây chuyền và tính chất sản xuất hàng
loạt. Trình độ công nghệ của cãc doanh nghiệp không tách rời trình độ công nghệ
trên thế giới. Muốn sản phẩm có chất lượng đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường
đặc biệt là thị trường quốc tế mỗi doanh nghiệp cần có chính sách công nghệ phù hợp
cho phép sử dụng những thành tựu khoa học trên thế giới đồng thời khai thác tốt đa
nguồn công nghệ nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao với chi phí hợp lý.
- Vật tư, nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư nguyên liệu của doanh
nghiệp.
Nguyên vật liệu là yếu tố tham gia trực tiếp cấu thành nên sản phẩm. Những đặc
tính của nguyên liệu sẽ được đưa vào sản phẩm, vì vậy chất lượng của nguyên liệu
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Không thể có chất lượng
sản phẩm cao từ những nguyên liệu có chất lượng tồi. Chủng loại, cơ cấu, tính đồng
bộ và chất lượng nguyên vật liệu có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm.
Ngoài ra, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào việc
thiết lập hệ thống cung ứng nguyên vật liệu thích hợp trên cơ sở tạo dựng mối quan
hệ lâu dài, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa con người sản xuất v