Đối với mỗi một giai đoạn lịch sử, mỗi một quốc gia đều chọn cho mình một 
hình thái kinh tế xã hội phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới. Trước 
năm 1986 Việt Nam áp dụng nền kinh tế tự cung tự cấp. Một phần nào đó nền kinh 
tế này đã cùng Việt Nam có những bước phát triển nhất định .Tuy nhiên khi nó 
không còn phù hợp với tinh hình định hướng chung của Việt Nam, nó bộc lộ nhiều 
mặt yếu kém kìm hãm sự phát triển đặc biệt là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội. Lúc này các cơ sở sản xuất, sản xuất theo kế hoạch của Nhà Nước,Nhà Nước 
bao cấp về vốn công nghệ kỹ thuật do đó giá cả không phản ánh giá trị của nó. 
Chính vì vậy xuất hiện hiện tượng lãi giả lỗ thật và hậu quả là năng suất lao động bị 
giảm sút, nền kinh tế Việt Nam đứng trước nguy cơ suy thoái. Nhận thấy tình hình 
cấp thiết, Đảng và Nhà Nước dã chủ trương khôi phục nền kinh tế. Nền Kinh tế 
hàng hoá nhiều thành phần tồn tại trong nó nhiều thành phần kinh tế khác nhau 
nhưng đồng thời chúng lại là các bộ phận trong nền kinh tế quốc dân thống nhất. 
Tuy nhiên trong bài viết này với góc độ, cách nhìn nhận của một sinh viên, em 
muốn tìm hiểu và nêu những nhận xét đối với những vấn đề của nền kinh tế, quan 
điểm lý luận cũng như các giải pháp có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách 
trong việc chuyển nền kinh tế đối với thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 20 trang
20 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2251 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Vấn đề của nền kinh tế, quan điểm lý luận cũng như các giải pháp có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách trong việc chuyển nền kinh tế đối với thời kỳ quá độ ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 LUẬN VĂN: 
vấn đề của nền kinh tế, quan điểm lý luận 
cũng như các giải pháp có liên quan đến quá 
trình tiến hành cải cách trong việc chuyển nền 
kinh tế đối với thời kỳ quá độ ở Việt Nam 
Phần mở đầu 
 Đối với mỗi một giai đoạn lịch sử, mỗi một quốc gia đều chọn cho mình một 
hình thái kinh tế xã hội phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới. Trước 
năm 1986 Việt Nam áp dụng nền kinh tế tự cung tự cấp. Một phần nào đó nền kinh 
tế này đã cùng Việt Nam có những bước phát triển nhất định .Tuy nhiên khi nó 
không còn phù hợp với tinh hình định hướng chung của Việt Nam, nó bộc lộ nhiều 
mặt yếu kém kìm hãm sự phát triển đặc biệt là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã 
hội. Lúc này các cơ sở sản xuất, sản xuất theo kế hoạch của Nhà Nước,Nhà Nước 
bao cấp về vốn công nghệ kỹ thuật do đó giá cả không phản ánh giá trị của nó. 
Chính vì vậy xuất hiện hiện tượng lãi giả lỗ thật và hậu quả là năng suất lao động bị 
giảm sút, nền kinh tế Việt Nam đứng trước nguy cơ suy thoái. Nhận thấy tình hình 
cấp thiết, Đảng và Nhà Nước dã chủ trương khôi phục nền kinh tế. Nền Kinh tế 
hàng hoá nhiều thành phần tồn tại trong nó nhiều thành phần kinh tế khác nhau 
nhưng đồng thời chúng lại là các bộ phận trong nền kinh tế quốc dân thống nhất. 
Tuy nhiên trong bài viết này với góc độ, cách nhìn nhận của một sinh viên, em 
muốn tìm hiểu và nêu những nhận xét đối với những vấn đề của nền kinh tế, quan 
điểm lý luận cũng như các giải pháp có liên quan đến quá trình tiến hành cải cách 
trong việc chuyển nền kinh tế đối với thời kỳ quá độ ở Việt Nam. 
Phần Nội dung 
I ) Những vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế hàng hoá 
1) Những vấn đề lý luận: 
a) Quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa và tính tất yếu của 
nó. 
 Một nền kinh tế sản xuất theo kiểu tự cung tự cấp chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu 
tiêu dùng ở phạm vi hẹp. Đây là kiểu tổ chức sản xuất tự nhiên, khép kín trong 
phạm vi từng đơn vị nhỏ, không cho phép mở rộng quan hệ với các đơn vị khác. Vì 
vậy, nó có tính chất bảo thủ, trì trệ, bị giới hạn ở nhu cầu hạn hẹp. 
 Sản xuất tự cung tự cấp thích ứng với thời kỳ lực lượng sản xuất chưa phát triển, 
khi mà lao động thủ công chiếm địa vị thống trị. Nó có trong thời kỳ công xã 
nguyên thuỷ, và tồn tại phổ biến trong thời kỳ chiếm hữu nô lệ. Trong thời kỳ 
phong kiến, sản xuất tự cung, tự cấp tồn tại dưới hình thái điền trang, thái ấp của địa 
chủ và kinh tế nông dân gia trưởng. 
 Khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân công lao động được mở rộng thì dần 
dần xuất hiện trao đổi hàng hóa. Khi trao đổi hàng hóa trở thành mục đích thường 
xuyên của sản xuất thì sản xuất hàng hóa ra đời theo đúng quy luật tất yếu của nó. 
 b) Điều kiện ra đời của kinh tế hàng hóa 
Khi tồn tại trong nền kinh tế sự phân công lao động xã hội, quan hệ giữa những 
người sản xuất thì nền kinh tế hàng hoá xuất hiện mang tính tất yếu của nó.Kinh tế 
hàng hóa là loại hình tiến bộ, là nấc thang cao hơn kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc 
trong sự phát triển của xã hội loài người. 
 Sản xuất hàng hóa là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất 
ra để bán trên thị trường. Nói một cách khác, toàn bộ quá trình sản xuất- phân phối- 
trao đổi- tiêu dùng; sản xuất cái gì? như thế nào? và cho ai? đều thông qua việc mua 
–bán, thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định. 
 Cơ sở KT-XH của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa là phân công lao 
động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản xuất 
khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. 
 Phân công lao động xã hội là việc phân chia người sản xuất vào những ngành 
nghề khác nhau của xã hội một cách hợp lý tức là chuyên môn hoá sản xuất 
 Do có sự phân công lao động xã hội nên mỗi đơn vị chỉ sản xuất một hay một 
vài sản phẩm nhất định. Song, nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mỗi người cần có 
nhiều loại sản phẩm. Vì vậy, đòi hỏi họ phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho 
nhau, phụ thuộc vào nhau. Phân công lao động là điều kiện cần của sản xuất hàng 
hóa. Khi sản phẩm lao động trở thành hàng hóa thì người sản xuất trở thành người 
sản xuất hàng hóa, lao động của người sản xuất hàng hóa vừa có tính chất xã hội, 
vừa mang tính cá biệt. 
c)Ưu thế của nền kinh tế hàng hóa 
 Sản xuất hàng hóa có những ưu thế sau: 
_ Sự phát triển của sản xuất hàng hóa làm cho phân công lao động ngày càng sâu 
sắc, chuyên môn hóa, hiệp tác hóa ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các 
vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó, nó xóa bỏ tính tự cấp, tự túc, bảo thủ, trì trệ của 
nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất và lao động. 
_ Tính tách biệt kinh tế đòi hỏi người sản xuất hàng hóa phải năng động trong sản 
xuất – kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Muốn vậy, họ phải cải tiến kỹ 
thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến quy trình, mẫu mã hàng 
hóa, tổ chức tốt quá trình tiêu thụ … nhằm tăng năng suất lao động xã hội, thúc đẩy 
lực lượng sản xuất phát triển. 
_ Sản xuất hàng hóa quy mô lớn có ưu thế so với sản xuất hàng hóa nhỏ về quy mô, 
trình độ kỹ thuật, khả năng thỏa mãn nhu cầu. Vì vậy, sản xuất hàng hóa quy mô 
lớn là cách thức tổ chức hiện đại để phát triển kinh tế – xã hội trong thời đại hiện 
nay. 
d)Các giai đoạn phát triển kinh tế 
 Trong lịch sử phát triển, khi trong sản xuất có sản phẩm thặng dư, tức là phần sản 
phẩm vượt qua phần sản phẩm tất yếu do người sản xuất tạo ra. Người lao động đã 
có thể làm chủ những sản phẩm dư thừa đó và xuất hiện sự trao đổi hàng hoá nhằm 
thoả mãn nhu cầu. Thị trường xuất hiện từ đó với vai trò là nơI tiến hành các cuộc 
trao đổi. 
 Tuy nhiên, phải đến giai đoạn cuối xã hội phong kiến đầu xã hội TBCN kinh tế 
thị trường(KTTT) mới được xác lập, và phải đến cuối giai đoạn phát triển của 
CNTB tự do cạnh tranh thì KTTT mới được xác lập hoàn toàn. Các giai đoạn phát 
triển kinh tế bao gồm: 
- Kinh tế hàng hoá giản đơn . 
- Kinh tế thị trường tự do, cổ điển. 
- Kinh tế thị trường hiện đại hỗn hợp. 
e)Những quy luật kinh tế cơ bản của kinh tế hàng hóa 
 Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. 
Chừng nào còn sản xuất và trao đổi hàng hóa thì chừng đó còn quy luật giá trị. 
 Yêu cầu của quy luật giá trị là sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở 
lượng giá trị hàng hóa hay thời gian lao động xã hội cần thiết.Trong trao đổi hàng 
hóa cũng phải dựa vào hao phí lao động xã hội cần thiết. Hai hàng hóa có giá trị sử 
dụng khác nhau có thể trao đổi với nhau được khi lượng giá trị của chúng ngang 
nhau. Theo nghĩa đó, trao đổi phải theo nguyên tắc ngang giá. 
 Quy luật giá trị là trừu tượng. Nó thể hiện sự vận động thông qua sự biến động 
của giá cả hàng hóa. Giá cả phụ thuộc vào giá trị, vì giá trị là cơ sở của giá cả. 
Ngoài ra, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như quan hệ cung cầu, tình 
trạng độc quyền trên thị trường, sản xuất và tiêu dùng. Tác động của các nhân tố 
trên làm giá cả hàng hóa trên thị trường xoay quanh giá trị của nó. Nhưng cuối 
cùng, tổng giá cả phù hợp với tổng giá trị của chúng. 
 Quy luật giá trị ảnh hưởng dến việc điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá 
Nếu có ngành nào đó, cung không đáp ứng cầu, giá cả hàng hóa lên cao thì người 
sản xuất sẽ đổ xô vào ngành đó. Ngược lại, khi ngành đó thu hút quá nhiều lao động 
xã hội, cung vượt cầu, giá cả hàng hóa hạ xuống thì người sản xuất sẽ phải chuyển 
bớt tư liệu sản xuất và sức lao động ra khỏi ngành này để đầu tư vào nơi có giá cả 
hàng hóa cao. Nhờ vậy, mà tư liệu sản xuất và sức lao động được phân phối qua lại 
một cách tự phát vào các ngành sản xuất khác nhau.Sự biến động của giá cả xung 
quanh giá trị không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác dụng điều 
tiết nền kinh tế. Trong lĩnh vực lưu thông, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết 
nguồn hàng từ nơi giá thấp đến nơi giá cao. 
 Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều luôn luôn 
tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt. Muốn vậy, họ phải 
luôn luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Lẽ tất yếu, trong nền 
kinh tế hàng hóa, lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều 
so với trong nền kinh tế tự cấp, tự túc. 
 Tuy nhiên quy luật giá trị cũng có mặt trái của nó. Một mặt, yêu cầu phải chú ý 
hạ thấp mức hao phí lao động cá biệt, tức là yêu cầu có sự tiết kiệm lao động, nhưng 
mặt khác, do chạy theo sản xuất những hàng hóa có giá cả cao, cho nên tạo ra quá 
nhiều, làm lãng phí lao động xã hội. 
 Ngoài ra quy luật giá trị còn thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và phân hóa người 
sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. 
 Xét về phương diện nào đó thì quy luật giá trị bảo đảm sự bình đẳng đối với 
người sản xuất. Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển của sản xuất hàng hóa giản đơn 
trong xã hội phong kiến dần dần sinh ta quan hệ sản xuất TBCN. Quan hệ giữa kẻ 
giàu – người nghèo, quan hệ giữa chủ – thợ, quan hệ giữa tư sản – vô sản là quan hệ 
đối kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh giữa 
người nghèo chống lại kẻ giàu, người thợ chống lại chủ, vô sản chống lại tư sản. Đó 
là một trong những khuyết tật của nền kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường. 
2) Tính tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường 
a) Những điều kiện : Sự phân công lao động xã hội, các nghành nghề sự tồn tại 
nhiều quá trình sở hữu 
 Nước ta quá độ lên CNXH trong điều kiện một nền sản xuất nhỏ là phổ biến do 
đó, nền kinh tế mà chúng ta xây dựng là một nền KTTT định hướng XHCN, tức là 
một nền KTTT tuy còn chưa thoát khỏi những đặc điểm của kinh tế thị trường 
TBCN nhưng bước đầu đã mang những yếu tố XHCN và những yếu tố này ngày 
càng lớn mạnh lên thay thế dần những yếu tố TBCN. Trong mô hình đó, chúng ta 
đã khẳng định rằng KTTT không phải là đặc trưng riêng có của CNTB, rằng KTTT 
ở nhiều mức độ phát triển khác nhau đã có riêng lịch sử với nhiều chế độ xã hội. Sự 
ra đời kinh tế thị trường TBCN chỉ đẩy nó lên một giai đoạn phát triển mới về chất. 
Là sự phát triển tiếp tục xu hướng khách quan đó, nền kinh tế của CNXH nói 
chung, của thời kì quá độ lên CNXH nói riêng là một sự phát triển mang tính phủ 
định biện chứng đối với kinh tế thị trường TBCN. Từ đấy ra đời một nền KTTT 
mới về chất. Nếu trong CNTB hiện đại, KTTT đặt dưới sự quản lý của nhà nước tư 
sản độc quyền vì lợi ích của giai cấp tư sản, thì trong CNXH nền KTTT nằm dưới 
sự quản lý của Nhà nước XHCN nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân góp phần thực 
hiện mục tiêu giải phóng con người, vì con người. 
b)Tính khách quan :sự phù hợp với thực trạng nền kinh tế 
 Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần hơn 10 năm qua đã 
diễn ra như một tất yếu kinh tế với sức mạnh hồi sinh, sức mạnh của hàng triệu 
quần chúng đã tạo ra sự thay đổi căn bản về sức sản xuất xã hội, được nhân dân 
đồng tình ủng hộ. Cũng từ đó, vấn đề định hướng XHCN của nền kinh tế được đặt 
ra hoàn toàn mới, hoàn toàn không chỉ là những ý tưởng về lý thuyết mà là thực tiễn 
phù hợp với ý nguyện nhân dân với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công 
bằng, văn minh”. CNXH là mục tiêu cao nhất trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng 
của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới kinh tế, chuyển sang KTTT không có một mục 
tiêu nào khác ngoài mục tiêu đó. Chúng ta đã có độc lập dân tộc, còn phải tiếp tục 
làm cho dân giàu, nước mạnh. Điều đó chỉ có thể sử dụng động lực của KTTT và 
vai trò lãnh đạo của Nhà nước. 
 Sự lựa chọn KTTT theo định hướng XHCN là thể hiện sự nhận thức mới về nền 
kinh tế XHCN. Đó là nền kinh tế do nhân dân lao động làm chủ, mọi năng lực sản 
xuất được giải phóng, mọi tiềm năng của cá nhân tập thể và cộng đồng dân tộc được 
khai thác vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh tiến lên hiện đại đi liền với tự do dân chủ 
tiến bộ và công bằng xã hội. 
C )Ưu thế của kinh tế hàng hóa so với kinh tế chỉ huy và những hạn chế cần 
khắc phục 
 Đường lối đổi mới toàn diện được khởi xướng từ Đại hội lần thứ VI của Đảng 
cộng sản Việt Nam mà trước hết là trong lĩnh vực kinh tế. Từ một nền kinh tế mệnh 
lệnh, kế hoạch hóa tập trung cao độ và bao cấp tràn lan kéo dài nhiều năm chuyển 
sang nền KTTT có sự quản lý của Nhà nước, chúng ta đã thay đổi hàng loạt chính 
sách kinh tế như đa dạng hóa các hình thức sở hữu, chấp nhận sở hữu tư nhân, kể cả 
sở hữu tư nhân TBCN, tạo điều kiện cho kinh tế hộ phát triển, đa phương hóa kinh 
tế đối ngoại, tự do hóa giá cả, v.v… Những thay đổi đó cho phép mọi người, mọi 
doanh nghiệp hoạt động một các bình đẳng theo pháp luật, được tự do kinh doanh 
trong các lĩnh vực không bị cản. Mọi chủ thể kinh tế không kể lớn bé đều được bảo 
hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp, được tự do giao dịch, tự do tìm kiếm thị 
trường, tự quyết định quy mô, loại hình công nghệ và hình thức kinh doanh. Tất cả 
những cái đó đã tạo ra một bức tranh hoàn toàn mới mẻ, sôi động mà trước khi đổi 
mới thật khó tưởng tượng nổi. 
 Ngày nay, không một ai phủ nhận vị trí đặc biệt quan trọng của kinh tế hàng hóa 
và KTTT trong nền sản xuất xã hội và hầu như đều thừa nhận sự tồn tại khách quan 
của kinh tế hàng hóa và KTTT trong nhiều chế độ xã hội khác nhau, không phải 
riêng có của CNTB. Đảng đã khẳng định: “ Sản xuất hàng hóa không đối lập với 
CNXH, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan 
cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”. 
 Trong nền kinh tế hàng hóa, KTTT, cơ chế thị trường là cơ chế kinh tế nảy sinh 
một cách tất yếu từ sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cơ chế kinh 
tế thông qua thị trường để tự điều chỉnh các cân đối của nền kinh tế theo yêu cầu 
của các quy luật khách quan, là guồng máy vận hành của nền kinh tế hàng hóa, 
KTTT, là phương thức cơ bản để phân phối và sử dụng các nguồn lực. Căn cứ vào 
thị trường, các doanh nghiệp sẽ quyết định: sản xuất gì, sản xuất như thế nào, sản 
xuất cho ai. KTTT đòi hỏi phát triển sản xuất hàng hóa, mọi sản phẩm là hàng hóa 
hoặc có tính hàng hóa; mở rộng thị trường về mọi phương diện; tự do sản xuất, kinh 
doanh; tự do thương mại; đa dạng hóa hình thức sở hữu, hình thức phân phối. Trong 
đó nó có các đặc trưng: Đặc trưng cơ bản nhất là cơ chế hình thành giá cả một cách 
tự do, thứ hai là lựa chọn tối ưu hóa các hoạt động kinh tế để đạt được lợi nhuận của 
các quy luật kinh tế hàng hóa. Sự quản lý, can thiệp vĩ mô của nhà nước phải thích 
hợp với yêu cầu của các quy luật đó. 
 KTTT là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế rất linh hoạt, mềm dẻo, nó có tác dụng 
kích thích mạnh và nhanh sự quan tâm thường xuyên đến đổi mới kỹ thuật, công 
nghệ quản lý, đến nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng; nó có tác dụng lớn trong 
tuyển chọn các doanh nghiệp và cá nhân quản lý kinh doanh giỏi. Trên cơ sở đó, 
KTTT kích thích sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển… 
 Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế- doanh nghiệp đơn vị sản xuất, các hãng 
kinh doanh- rất cao. Thừa nhận sự tồn tại của kinh tế hàng hóa cũng có nghĩa là 
thừa nhận sự tách biệt về kinh tế giữa các chủ thể, các chủ thể phải tự bù đắp chi phí 
và có lãi. Kinh tế hàng hóa không bao dung hành vi bao cấp, nó đối lập với bao cấp 
và đồng nghĩa với tự chủ, năng động. 
 Trên thị trường, hàng hóa rất phong phú, người ta tự do mua bán hàng hóa. Đặc 
trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của KTTT so với kinh tế tự nhiên. 
 Những ưu thế trên của KTTT phản ánh trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật 
và công nghệ, tựu trung phản ánh trình độ cao của lực lượng sản xuất xã hội. Vì 
vậy, nói đến KTTT là nói đến một nền kinh tế phát triển cao. 
Ii ) Đặc điểm kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phát triển theo định hướng 
XHCN ở Việt Nam 
1) Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế kém phát 
triển, mang nặng tính tự cấp, tự túc và quản lý theo cơ chế kế hoạch hóa tập 
trung sang nền kinh tế hàng hóa, vận hành theo cơ chế thị trường. 
 Đi lên CNXH không qua giai đoạn phát triển TBCN nên nước ta thiếu cái “cốt 
vật chất” của một nền kinh tế phát triển. Do hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến 
tranh, của nền kinh tế kém phát triển, của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp,…nền 
kinh tế của nước ta đã tụt hậu nghiêm trọng so với khu vực và quốc tế. Trong bối 
cảnh đó, KTTT là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng 
hoảng, phục hồi sản xuất, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời 
đại. 
 Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, đất nước ta chuyển sang cơ chế thị 
trường có sự quản lý của Nhà nước là phù hợp với quy luật khách quan, hợp lòng 
dân, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Nhờ chuyển sang KTTT mà nền kinh tế nước 
ta đã có những thay đổi căn bản, nhờ cơ chế thị trường mà phân bổ các nguồn lực 
một cách hiệu quả hơn. Các động lực lợi ích đã phát huy tác dụng, cơ chế quản lý 
mới đã được vận hành và ngày càng tham gia tốt hơn vào phân công lao động quốc 
tế. Nhưng, Đảng ta chủ trương chuyển sang KTTT, không phải là một thị trường bất 
kỳ, mà là thị trường định hướng XHCN. Về bản chất đó là cơ chế hỗn hợp mang 
tính định hướng XHCN, vừa kế thừa những thành tựu của loài người, vừa gắn liền 
với đặc điểm và mục tiêu chính trị là sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ 
xã hội. Đó là nguyên tắc chiến lược như sự tìm tòi cho một thiết chế mới. Trước 
đây, có lúc chúng ta hiểu chưa đúng, đồng nhất KTTT với kinh tế TBCN, mà cho 
rằng thị trường là bản chất. Vì vậy, mà không tận dụng được sức mạnh của thị 
trường để phát triển kinh tế. Giờ đây, chúng ta đã hiểu được rằng thị trường không 
mang bản chất chế độ, mà chỉ có chế độ xã hội nào biết hay không biết tận dụng 
những lợi thế đó để phục vụ chế độ mình. Thị trường được coi là một phương tiện 
quan trọng để xây dựng và phát triển kinh tế. 
 Vì vậy, càng đổi mới kinh tế, càng gần với CNXH hơn. Nền kinh tế hàng hóa 
nhiều thành phần hợp tác, đua tranh phát triển ấy có thể đi lên sản xuất lớn XHCN 
bằng chế độ hợp tác trên nền tảng của một nền sản xuất xã hội hóa. 
2)Nền kinh tế hàng hóa phát triển theo định hướng XHCN thông qua bản chất 
và vai trò quản lý của Nhà nước 
 Sự vận động của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường không thể nào giải 
quyết hết được những vấn đề do chính cơ chế đó và bản thân đời sống KT- XH đặt 
ra. Đó là tình trạng thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng, phân hóa bất bình đẳng, ô 
nhiễm môi trường, sự bùng nổ dân số cũng như những hiện tượng xã hội khác. 
Những tình trạng và hiện tượng trên ở những mức độ khác nhau, trực tiếp hay gián 
tiếp đều có tác động ngược trở lại, làm cản trở sự phát triển “bình thường” của một 
xã hội nói chung và của nền kinh tế hàng hóa nói riêng. Vì vậy sự tác động của Nhà 
nước- một chủ thể có khả năng nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan- vào 
nền kinh tế là một tất yếu của sự phát triển KT- XH. Thiếu sự “can thiệp” của Nhà 
nước vào kinh tế để cho nền KTTT tự do hoạt động, thì việc điều hành nền kinh tế 
nước ta sẽ không thể có hiệu quả, cũng giống như người ta muốn vỗ tay mà chỉ 
dùng một “bàn tay”. 
 Sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế hàng hóa ở nước ta được thực hiện 
bằng luật pháp và các công cụ chính sách vĩ mô khác. Nhà nước sử dụng những 
công cụ đó để quản lý các hoạt động kinh tế làm cho nền kinh tế “ lành mạnh” hơn, 
giảm bớt những thăng trầm, đột biến xấu trên con đường phát triển của nó, khắc 
phục được tình trạng phân hóa bất bình đẳng, baơ vệ được tài nguyên môi trường 
của đất nước. Như vậy, sự vận động của nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường 
có sự quản lý của Nhà nước ở nước ta là một sự vận động được điều tiết bởi sự 
thống nhất giữa cơ chế thị trường- “bàn tay vô hinh”, và sự quản lý của Nhà nước- 
“bàn tay hữu hình”. 
3)Nền kinh tếquan hệ với kinh tế các nước trên thế giới tồn tại dưới nhiều hình 
thức 
 Kinh tế “khép kín” thường gắn liền với nền kinh tế phong kiến, gắn với sản xuất 
nhỏ, với tình trạng “bế quan