Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa nhân loại, xã hội ngày một đổi mới và phát triển, nhu cầu tiếp cận thông tin của con người ngày một nâng cao. Báo chí ra đời đã đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng. Chính vì thế, báo chí là một hiện tượng xã hội, báo chí ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức của con người. Mặc dù ngành báo chí ra đời chưa được 5 thế kỷ nhưng đã phát huy hết được vai trò, sức mạnh của mình. Trong suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội góp phần nâng cao dân trí, giáo dục nhận thức con người.
Ở nước ta, báo chí là công cụ chính trị của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể. Trong lý luận hoạt động thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò và sức mạnh của báo chí. Đảng xác định “ Báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, vừa là diễn đàn của nhân dân ”. Trong đấu tranh cũng như trong hòa bình, Đảng luôn tin tưởng và coi trọng tiếng nói báo chí. Những thông tin mà báo chí mang lại trên sóng phát thanh hay các phương tiện thông tin đại chúng là kênh thông tin hữu hiệu trong việc tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần đưa đất nước tiến tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1. Lý do chọn đề tài
Ở mỗi quốc gia, mợi thời đại, báo chí luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Báo chí là sản phẩm tinh thần không thể thiếu của mỗi con người. Nó lấy hiện thực khách quan làm đối tượng phản ánh, mục đích cung cấp cho công chúng cái nhìn toàn cảnh, sinh động, chính xác về tất cả các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống.
Trên thế giới báo chí được xem như là cơ quan quyền lực thứ tư sau cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều này chứng tỏ ở bất kỳ một xã hội nào, tổ chức nào cũng đều phải đặt báo chí lên mối quan tâm hàng đầu.
Còn ở Việt Nam, hơn một thế kỷ đã trôi qua hệ thống báo chí nước ta đã và đang phát triển không ngừng, phù hợp với sự phát triển của thời đại. Ngày nay, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng với nhu cầu thị hiếu của công chúng, bạn đọc ngày càng tăng, đòi hỏi báo chí phải luôn luôn tự đổi mới phục vụ đắc lực cho công tác tuyên truyền, làm sao cho công chúng luôn có cái nhìn mới về mỗi sản phẩm báo chí do phóng viên, nhà báo làm ra. Giúp cho công chúng không chỉ biết mà còn hiểu và lắm bắt được những gì mà báo chí muốn đề cập tới.
20 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3348 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Vấn đề thực trạng nguồn nhân lực ở cơ quan báo chí, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Vấn đề thực trạng nguồn nhân lực ở cơ quan báo chí Mục lục
MỞ ĐẦU
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa nhân loại, xã hội ngày một đổi mới và phát triển, nhu cầu tiếp cận thông tin của con người ngày một nâng cao. Báo chí ra đời đã đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng. Chính vì thế, báo chí là một hiện tượng xã hội, báo chí ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức của con người. Mặc dù ngành báo chí ra đời chưa được 5 thế kỷ nhưng đã phát huy hết được vai trò, sức mạnh của mình. Trong suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội góp phần nâng cao dân trí, giáo dục nhận thức con người.
Ở nước ta, báo chí là công cụ chính trị của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể. Trong lý luận hoạt động thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta đánh giá cao vai trò và sức mạnh của báo chí. Đảng xác định “ Báo chí vừa là tiếng nói của Đảng, của Nhà nước, vừa là diễn đàn của nhân dân ”. Trong đấu tranh cũng như trong hòa bình, Đảng luôn tin tưởng và coi trọng tiếng nói báo chí. Những thông tin mà báo chí mang lại trên sóng phát thanh hay các phương tiện thông tin đại chúng là kênh thông tin hữu hiệu trong việc tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần đưa đất nước tiến tới một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
1. Lý do chọn đề tài
Ở mỗi quốc gia, mợi thời đại, báo chí luôn giữ vai trò vô cùng quan trọng. Báo chí là sản phẩm tinh thần không thể thiếu của mỗi con người. Nó lấy hiện thực khách quan làm đối tượng phản ánh, mục đích cung cấp cho công chúng cái nhìn toàn cảnh, sinh động, chính xác về tất cả các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong cuộc sống.
Trên thế giới báo chí được xem như là cơ quan quyền lực thứ tư sau cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Điều này chứng tỏ ở bất kỳ một xã hội nào, tổ chức nào… cũng đều phải đặt báo chí lên mối quan tâm hàng đầu.
Còn ở Việt Nam, hơn một thế kỷ đã trôi qua hệ thống báo chí nước ta đã và đang phát triển không ngừng, phù hợp với sự phát triển của thời đại. Ngày nay, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, cùng với nhu cầu thị hiếu của công chúng, bạn đọc ngày càng tăng, đòi hỏi báo chí phải luôn luôn tự đổi mới phục vụ đắc lực cho công tác tuyên truyền, làm sao cho công chúng luôn có cái nhìn mới về mỗi sản phẩm báo chí do phóng viên, nhà báo làm ra. Giúp cho công chúng không chỉ biết mà còn hiểu và lắm bắt được những gì mà báo chí muốn đề cập tới.
Có được sự phát triển như vậy, đóng góp một vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu đó chính là nguồn nhân lực trong mỗi cơ quan báo chí, mà trong đó có đội ngũ phóng
viên, biên tập viên, kỹ thuật viên… có trình độ năng lực, phẩm chất chính trị, luôn phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, Nhà nước. Phục vụ Đảng, phục vụ Nhà nước là cầu nối giữa Đảng - Nhà nước - với quần chúng nhân dân. Vì vậy việc tìm hiểu vấn đề nguồn nhân lực trong các cơ quan báo chí nó không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có tính thực tiễn sâu sắc. Nhưng để biết và hiểu được nguồn nhân lực trong mỗi cơ quan báo chí có vai trò, nhiệm vụ, trình độ năng lực, phẩm chất chính trị … như thế nào thì đòi hỏi mỗi chúng ta phải tự tìm tòi, nghiên cứu, đi sâu vào thực tế để tự mình quan sát đánh giá để có cái nhìn tổng quan nhất về hệ thống nguồn nhân lực trong mỗi cơ quan báo chí ở nước ta.
Xuất phát từ tầm quan trọng trên, cùng với những kiến thức đã học. Tôi đã chọn “vấn đề thực trạng nguồn nhân lực ở cơ quan báo chí” để nghiên cứu và làm đề tài báo cáo tốt nghiệp cho mình. Đồng thời để từ đây giúp bản thân có thể hiểu rõ hơn về hệ thống nguồn nhân lực trong mỗi cơ quan báo chí ở nước ta hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đề tài “ vấn đề thực trạng nguồn nhân lực ở cơ quan báo chí ” là một trong những đề tài hết sức phổ biến và đã được nhiều nhà trường như (Học viện báo chí tuyên truyền, Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Cao đẳng truyền hình, Cao đẳng Phát thanh truyền hình… ) triển khai cho những sinh viên làm luận văn tốt nghiệp ra trường và đã phần nào mang lại hiệu quả. Tuy nhiên do số lượng sinh viên thực tập ở nhiều Đài, cơ quan khác nhau. Cơ chế, cơ cấu tổ chức ở mỗi Đài, cơ quan lại khác nhau. Cùng với thời gian nghiên cứu còn hạn chế và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, điều kiện vật chất còn thiếu nên mức độ nghiên cứu còn chưa sâu.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nguồn nhân lực là gốc rễ, là cội nguồn của mọi cơ quan báo chí. Muốn có cơ quan báo chí phát triển thì nguồn nhân lực phải phát triển. Do đó, vấn đề sử dụng nguồn nhân lực như thế nào ở cơ quan báo chí là rất quan trọng. Nghiên cứu đề tài này, tôi không chỉ nghiên cứu những kiến thức sơ lược, tổng quan về nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí. Mà còn muốn tìm hiểu sâu về cơ cấu tổ chức hoạt động, chức năng nhiệm vụ của từng phòng ban, cá nhân... với hy vọng những nghiên cứu của tôi có thể phần nào nâng cáo hơn nữa hiệu quả vai trò của từng thành viên trong cơ quan báo chí. Hơn nữa là một sinh viên chuyên nghành báo chí sắp ra trường, việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp tôi có những định hướng tốt hơn cho tương lai.
* Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tai khá rộng nhưng lại rất thiết thực cho mỗi cơ quan báo chí. Trong tiểu luận này, tôi chỉ tập chung nghiên cứu vấn đề sử dụng và phát triển nguồn nhân lực, công tác đào tạo nguồn nhân lực... ở Đài phát thanh Sóc sơn trong thời gian từ ngày 10 tháng 10 năm 2011 đến ngày 02 tháng 12 năm 2011.
4. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu sử dụng để làm tiểu luận gồm: Phương pháp tổng hợp, so sánh, phân tích, đối chiếu, nghiên cứu tài liệu, thống kê, phân loại… Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp kiểm chứng, khảo sát hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực ở đài phát thanh địa phương.
5. Kết cấu tiểu luận
Kết cấu tiểu luận gồm có:
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương I: Khái quát chung về nguồn nhân lực của cơ quan báo chí
Chương II: Khảo sát nguồn nhân lực tại Đài phát thanh huyện Sóc Sơn
Chương III: Đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
E KẾT LUẬN
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGUỒN NHÂN LỰC CỦA CƠ QUAN BÁO CHÍ
QUAN NIỆM VỀ NGUỒN NHÂN LỰC
Quan niệm
Nguồn nhân lực hay nói cách khác là nguồn lực con người là tổng thể những yếu tố thuộc về thể chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ, tri thức, vị thế xã hội tạo nên năng lực của con người được phát huy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Khi nói tới nguồn lực con người là nói tới con người với tư cách là chủ thể lao động sáng tạo, tham gia cải tạo tự nhiên và làm biến đổi xã hội. Nguồn lực con người gồm hai yếu tố số lượng và chất lượng.
Số lượng nguồn nhân lực được xây dựng trên quy mô dân số, độ tuổi, giới tính sự phân bố giữa các vùng miền, giữa các ngành, nghề, lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Còn chất lượng là thể lưc, trí lực, năng lực quản lý, tay nghề, phẩm chất đạo đức, tình yêu quê hương đất nước, ý thức giai cấp và bản lĩnh chính trị.
Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau. Xã hội muốn phát triển nhanh, bền vững thì phải quan tâm tới cả số lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
Bất kỳ tổ chức, cơ quan báo chí nào, nếu muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực mạnh. Vì vậy, yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất trong các tổ chức, cơ quan báo chí là nguồn nhân lực.
1.1 Quan niệm của Mác - Lênin về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố thuộc về vật chất tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ nhận thức, vị thế xã hôi… tạo thành năng lực của con người, của cộng đồng người có thể phát huy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Nguồn lực con người bằng số lượng nguồn nhân lực cộng với chất lượng nguồn lực. Số lượng nguồn nhân lực xác định trên quy mô dân số, cơ cấu độ tuổi, sự tiếp nối các thế hệ giới tính và sự phân bố dân cư giữa các vùng miền, lãnh thổ, giữa các nghanh kinh tế, các lĩnh vực đời sống xã hội. Yếu tố quyết định nguồn nhân lực là phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn, vì nó nói lên mức độ trưởng thành của con người, ngoài ra nó còn quyết định phương pháp tư duy, nhân cách nối sống của con người.
1.2 Quan niệm, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguồn nhân lực
Hồ Chí Minh coi con người là vốn quý. Muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người XHCN. Tiêu chuẩn của con người của XHCN là phải có tư tưởng XHCN mình vì mọi người, có ý thức khả năng làm chủ, có đạo đức lối sống XHCN, lao động có kỷ luật, kỹ thuật. Hồ Chí Minh quan niệm báo chí là một mặt trận và mọi người hoạt động trên lĩnh vực đó đều được coi là chiến sỹ. Người khẳng định “cán bộ báo chí cũng là chiến sỹ cách mạn,. cây bút trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”.
2. Đặc điểm nguồn nhân lực
2.1 Đặc điểm nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí
Việc đào tạo nguồn nhân lực trong thời kỳ nào, giai đoạn nào cũng được Đảng và Nhà nước ta hết sức coi trọng. Nguồn nhân lực có vai trò quyết định đến sự thành công của bất cứ một ngành nghề nào, đặc biệt đối với báo chí một lĩnh vực rộng lớn đòi hỏi một lực lượng đông đảo. Trước tình hình đất nước ngày càng đổi mới và hội nhập như hiện nay, nguồn nhân lực lại càng đóng một vai trò hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với công cuộc phát triển sự nghiệp báo chí. Nó thúc đẩy cho cơ quan báo chí hoạt động mạnh, giúp cho cơ quan báo chí luôn phát huy được nguồn lực sẵn có của mình để phục vụ đất nước. Bởi báo chí nó luôn phản ánh tất cả các mặt của đời sống. Do vậy, những người làm báo phải có kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực khác nhau. Nói đến cơ quan báo chí là chúng ta nhắc tới đội ngũ phóng viên, biên tập viên là những người trực tiếp tìm hiểu thông tin, sáng tạo tác phẩm báo chí để duy trì hoạt động của cơ quan báo chí.
Nguồn nhân lực của cơ quan báo chí là toàn bộ những con người làm trong cơ quan báo chí. Trong đó người đứng đầu cơ quan báo chí giữ vai trò quan trọng trong việc điều hành lãnh đạo, còn đội ngũ phóng viên, biên tập viên giữ vai trò chủ trốt. Đội ngũ phóng viên, biên tập viên báo chí nước ta phát triển theo tính kế thừa theo xu hướng ngày càng trẻ hóa và được đào tạo chính quy. Lớp phóng viên trẻ từ 25 - 40 tuổi phần lớn được đào tạo cơ bản từ các trường đào tạo báo chí trong và ngoài nước. một số được đào tạo từ các chuyên ngành như kinh tế, tài chính, ngoại ngữ, luật… rồi chuyển sang làm báo chí. Báo chí nước ta đang kiên toàn tổ chức, điều chỉnh bố chí lại cán bộ ở các phòng ban, để tạo sự hợp lý, tạo tính chuyên sâu trong công việc, đồng thời báo chí cũng đang tiếp tục xây dựng đội ngũ cán bộ chiến sỹ có bản lĩnh chính trị vững vàng, được rèn luyện nghiệp vụ báo chí, pháp luật, kiến thức kinh tế, xã hội, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo đức của người làm báo chí. Cán bộ, phóng viên, biên tập viên yêu nghề, say sưa gắn bó với nghề, không chủ quan, tự mãn luôn ý thức phấn đấu vươn lên không ngừng trở thành những nhà báo vững
vàng về chính trị, có chuyên môn giỏi để đáp ứng với nhu cầu hội nhập ngày càng cao. Hạn chế phổ biến nhất của đội ngũ cán bộ, phóng viên báo chí nước ta hiện nay là tỷ lệ thành thạo ngoại ngữ chưa cao, số phóng viên giỏi chưa nhiều, số phóng viên giỏi có tiếng đã chuyển sang làm công tác quản lý bên canh đó một số phóng viên trẻ nhiệt tình, xông xáo lại chưa đủ sắc sảo, vốn sống lại hạn chế nên thường gặp một số trở ngại và khó khăn khi tác nghiệp. Ở các lĩnh vực như xây dựng Đảng, kinh tế, chính trị, ngoại giao, lại đang thiếu những cây bút đủ tầm. Kinh tế nước ta đang dần hội nhập với thế giới nên một số phóng viên chạy theo kinh tế thị trường dẫn đến đã cho ra những tác phẩm xa rời đường lối của Đảng hay những tác phẩm câu khách mang tính chất thị trường.
2.2 Vai trò của nguồn nhân lực trong cơ quan báo chí.
Bác Hồ đã nói: “ Nói đến báo chí trước hết phải nói đến những người làm báo, là chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng văn hóa, quyết định đến hiệu quả, chất lượng của tờ báo” và Đại Hội lần thứ II của Hội Nhà Báo Việt Nam(1959) khi đặt vấn đề về trách nhiệm của báo chí bác cũng khẳng định: “ Báo chí là người tuyên truyền, người cổ động, người tổ chức chung, người lãnh đạo chung, vì vậy nhiệm vụ của người làm báo là quan trọng vẻ vang”.
Như vậy nói đến nguồn nhân lực là nói đến con người hoạt động trong cơ quan báo chí, cơ quan báo chí nào muốn hoạt động có hiệu quả thì phải có đầy đủ nguồn nhân lực từ phóng viên chuyên nghiệp của cơ quan, các biên tập viên, kĩ thuật viên cho đến đội ngũ cộng tác viên.
Đội ngũ phóng viên, cộng tác viên họ là những người đi sâu vào quần chúng nhân dân để tìm hiểu những vấn đề xảy ra trong xa hội một cách nhanh nhất, kịp thời nhất. Tuyên truyền nhân rộng những điển hình làm kinh tế giỏi, cổ vũ động viên những nhân tố mới. Họ thường xuyên đi cơ sở thâm nhập thực tế vào đời sống của nhân dân để tìm ra những mặt tốt mặt xấu của xã hội, từ đó lên án hay
phê phán, biểu dương nhân dân những gương người tốt việc tốt, giáo dục quần chúng hướng dẫn dư luận,đồng thời họ cũng tìm hiểu tâm tư nguyện vọng giải dáp mọi thắc mắc cuar quần chúng nhân dân về chủ trương đường lối chính sách của Đảng và nhà nước, các vấn đề xảy ra trong đời sống xã hội. Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, các thế lực thù địch từ bên ngoài đang tìm cách chống phá nhà nước ta vì vậy vai trò của mỗi cơ quan báo chí và mỗi cá nhân nói chung là vô cùng quan trọng.
3. Cơ cấu, bố trí nhân lực trong cơ quan báo chí
II. TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGUỒN NHÂN LỰC
1. Điều kiện để thành lập cơ quan báo chí
Tổ chức muốn thành lập cơ quan báo chí phải có đủ các điều kiện sau
* Có người đủ tiêu chuẩn để đứng đầu cơ quan báo chí đó là :
- Người đứng đầu cơ quan báo chí là Tổng biên tập (báo in) hoặc tổng giám đốc, Giám đốc (đài phát thanh, truyền hình, cơ sở thực hiện chương trình nghe, nhìn thời sự).
- Người đứng đầu cơ quan báo chí phải là người có quốc tịch việt nam, có địa chỉ thường trú tại Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn chính trị, đạo đức và nghiệp vụ báo chí do nhà nước quy định.
- Người đứng đầu cơ quan báo chí lãnh đạo và quản lyscow quan báo chí về mọi mặt, bảo đảm thực hiện tôn chỉ mục đích của cơ quan báo chí và chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cơ quan chủ quản và trước pháp luật về mọi hoạt động của cơ quan báo chí.
* Xác định rõ tên gọi, tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, phạm vi phát hành chủ yếu, công suất, thời gian, tần số phạm vi tỏa sóng và ngôn ngữ thể hiện của cơ quan báo chí.
* Có trụ sở chính và có các điều kiện cần thiết khác để đảm bảo cho hoạt động của cơ quan báo chí.
2. Thực hiện chức năng nhiệm vụ của cơ quan báo chí
2.1 Cơ quan báo chí có chức năng
Là cơ quan ngôn luận của đảng bộ, chính quyền và nhân dân, đồng thời là cầu nối thông tin giữa Đảng, chính quyền với nhân dân là đơn vị sự nghiệp có thu, hoạt động báo chí theo quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
2.2 Cơ quan báo chí có nhiệm vụ
+ Thông tin, tuyên truyền về đường 1ối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; các nghị quyết, chỉ thị, quyết định của đảng bộ, chính quyền địa phương; giáo dục lòng yêu nước, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lối sống lành mạnh, truyền thống tốt đẹp, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Tham gia phát động và tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, nêu gương các tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến. Tham gia tổng kết thực tiễn, đúc rút và phổ biến kinh nghiệm, góp phần bổ sung, hoàn thiện quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và quy định của địa phương, đưa đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.
+ Tổ chức tiếp nhận, xử 1ý, đăng tải thông tin kịp thời, chính xác; thực hiện là diễn đàn của nhân dân theo quy định của pháp luật; góp phần xây dựng đảng bộ và các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương vững mạnh.
+ Chủ động đấu tranh kiên quyết, sắc bén với những âm mưu và hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tích cực giám sát, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các biểu hiện tiêu cực, góp phần định hướng tư tưởng và dư luận xã hội.
+ Xây dựng cơ quan báo vững mạnh; xây dựng đội ngũ công chức, viên chức và người lao động có lập trường, quan điểm vững vàng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ và có đạo đức nghề nghiệp.
3. Vai trò nhiệm vụ của từng thành viên trong cơ quan báo chí
Về cơ cấu tổ chức, trong một cơ quan báo chí bao giờ cũng phân ra thành các phòng, ban các bộ phận riêng. Trong đó các cán bộ phóng viên, biên tập viên, kĩ thuật viên đều có chức năng nhiệm vụ riêng của mình. Nhưng tựu chung lại đều là lao động sáng tạo, phục vụ sự nghiệp truyền thông đại chúng.
3.1 Lãnh đạo
Ban lãnh đạo gồm những nhiệm vụ cụ thể, được coi là bộ não của tòa soạn, có vai trò quyết định đến nội dung và hình thức của tác phẩm báo chí của cơ quan mình. Lãnh đạo của cơ quan báo chí thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước thực hiện tôn chỉ mục đích của tòa báo đặt ra. Tổ chức lập kế hoạch trước mắt và lâu dài của tờ báo. Đề xuất sáng kiến, tổ chức thực hiện sáng kiến đó Tổ chức hội nghị cộng tác viên, gặp gỡ bạn đọc. Ban lãnh đạo cũng có thể tham gia trực tiếp viết tin, bài và duyệt bài.
Người làm công tác lãnh đạo cơ quan báo chí chính là người trực tiếp tổ chức phân công công việc và lên kế hoạch cho cán bộ nhân viên trong cơ quan báo chí. Là người chịu trách nhiệm quản lý và bao quát cơ quan, chính vì vậy người lãnh đạo cần phải có tư tưởng chính trị vững vàng, có quan điểm lập trường rõ ràng. không những như vậy người lãnh đạo cần có vốn hiểu biết uyên thâm, trình độ học vấn cao. Một yêu cầu đặt ra cho người
lãnh đạo hiện nay đó là phải có đạo đức, phẩm chất và nhân cách. Phải thích ứng nhanh với biến động của thời cuộc, phải biết xử lý nhanh trước mọi biến cố. Phải luôn rà soát kiểm tra, kịp thời phát
hiện những sai sót để có phương hướng nhanh nhất để sửa chữa. Từ đó tạo mọi điều kiện thuận lợi để cơ quan báo chí của mình phát triển ổn định vả hiệu quả.
3.2 Tổng biên tập ( Tổng giám đốc)
Là người đứng đầu cơ quan báo chí, trực tiếp lãnh đạo, tổ chức và giáo dục tập thể soạn, chăm no khối đoàn kết nội bộ và xây dựng mối liên hệ với quần chúng. Tổng biên tập chịu trách nhiệm về chất lượng, nội dung chínhvà hình thức của tờ báo, cụ thể: Chịu trách nhiệm trước bạn đọc và nhân dân, chịu trách nhiệm trước tòa soạn của mình, trước cơ quan chủ quản và chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đó là trách nhiệm nặng nề của tổng biên tập, tổng biên tập do cơ quan chủ quản trực tiếp bổ nhiệm, sau khi có sự thống nhất bằng văn bản của cơ quan chỉ đạo và quản lí báo chí, luật báo chí ghi rõ:
+ Người đứng đầu cơ quan báo chí là tổng biên tập( báo in) hoặc tổng giám đốc, giám đốc ( đài phát thanh – truyền hình) cơ sở thực hiện nghe nhìn thời sự.
+ Người đứng đầu cơ quan báo chí phải là người có quốc tịch Việt Nam, có địa chỉ thường trú tại Việt Nam, có đủ các tiêu chuẩn chính trị , đặc điểm và nghiệp vụ báo chí do nhà nước quy định.
+ Người đứng đầu cơ quan báo chí lãnh đạo và quản lí cơ quan báo chí về mọi mặt, đảm bảo thực hiện tôn chỉ mục đích, mục đích của cơ quan báo chí và chịu trách nhiệm trước thủ trưởng cơ quan chủ quản và trước pháp luật về mọi hoạt động của cơ quan báo chí.
Như vậy, tổng biên tập là người đứng đầu cơ quan báo chí ở nước ta, được pháp luật quy định về chức danh, tiêu chuẩn và quyền hạn, trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin xem tổng biên tập là “ linh hồn chính trị” cuẩ nhà báo V.I Lê Nin goi tổng biên tập là” ngọn cờ” của tờ báo, Chủ Tịch Hồ Chí minh xá định tổng biên
tập và các nhà báo là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng của Đảng, đồng chí Nguyễn Đức Bình nguyên ủy viên Bộ Chính Trị nói: “Tổng biên
tập là các tờ báo, đài, vô tuyến truyền hình có vai trò quan trọng.họ có trách nhiệm chính trị cực lớn, họ là linh hồn của tờ báo. Tổng biên tập là một chức năng không gì thay thế được”. Đúng, hay, tốt, xấu của tờ báo trước hết ở tổng biên tập. Tổng biên tập là người như thế nào trong quan điểm chính trị và tư tưởng