Trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước mà đại hội IX của Đảng cộng sản
Việt Nam đã đề ra là phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, vì
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đưa nước ta
thành một nước văn minh hiện đại.
Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã đề ra nhiều nghị quyết nhằm phát huy nhiều
nguồn lực để tăng trưởng kinh tế. Trong đó có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
Ba, về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp Nhà nước. Nghị
quyết khẳng định: “Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các nghành, lĩnh vực then
chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực
hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng thế và lực của đất
nước Doanh nghiệp Nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường; năng lực
sản xuất tiếp tục tăng; cơ cấu ngày càng hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có
nhiều tiến bộ; hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên; đời sống của người
lao động được cải thiện.” Tuy nhiên Nghị quyết cũng chỉ ra những mặt yếu kém của
doanh nghiệp nhà nước, đó là:” Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn
nhiều điểm chưa phù hợp với cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa, chưa tạo được động lực
mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao
động và hiệu quả kinh doanh ”.
Như vậy, làm sao để tạo được động lực mạnh mẽ, thúc đẩy cán bộ và người lao
động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh? Làm sao
để mọi người trong doanh nghiệp liên kết với nhau, hướng đến một mục tiêu duy nhất là
luôn làm cho doanh nghiệp của mình ngày càng phát triển, góp phần vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và đời sống của chính mình. Thực hiện mục tiêu đó, tất
yếu phải tiến hành xây dựng văn hoá doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước.
Nghị quyết Trung ương Năm khoá VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: “ Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.”Chúng ta phải làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống.
109 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2308 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Văn hoá doanh nghiệp và vai trò
Công đoàn trong việc xây dựng Văn
hoá doanh nghiệp
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước mà đại hội IX của Đảng cộng sản
Việt Nam đã đề ra là phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, vì
mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đưa nước ta
thành một nước văn minh hiện đại.
Để đạt được mục tiêu đó Đảng đã đề ra nhiều nghị quyết nhằm phát huy nhiều
nguồn lực để tăng trưởng kinh tế. Trong đó có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
Ba, về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp Nhà nước. Nghị
quyết khẳng định: “Doanh nghiệp nhà nước đã chi phối được các nghành, lĩnh vực then
chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế; góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực
hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng thế và lực của đất
nước…Doanh nghiệp Nhà nước ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường; năng lực
sản xuất tiếp tục tăng; cơ cấu ngày càng hợp lý hơn; trình độ công nghệ và quản lý có
nhiều tiến bộ; hiệu quả và sức cạnh tranh từng bước được nâng lên; đời sống của người
lao động được cải thiện.” Tuy nhiên Nghị quyết cũng chỉ ra những mặt yếu kém của
doanh nghiệp nhà nước, đó là:” Cơ chế chính sách còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, còn
nhiều điểm chưa phù hợp với cơ chế thị trường xã hội chủ nghĩa, chưa tạo được động lực
mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ và người lao động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao
động và hiệu quả kinh doanh”.
Như vậy, làm sao để tạo được động lực mạnh mẽ, thúc đẩy cán bộ và người lao
động trong doanh nghiệp nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh? Làm sao
để mọi người trong doanh nghiệp liên kết với nhau, hướng đến một mục tiêu duy nhất là
luôn làm cho doanh nghiệp của mình ngày càng phát triển, góp phần vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước và đời sống của chính mình. Thực hiện mục tiêu đó, tất
yếu phải tiến hành xây dựng văn hoá doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước.
Nghị quyết Trung ương Năm khoá VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng
định: “ Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.”Chúng ta phải làm cho văn hoá thấm sâu vào mọi lĩnh
vực của đời sống. Vì vậy văn hoá doanh nghiệp được coi là nguồn lực nội sinh, trực tiếp
thúc đẩy sự phát triển bền vững của các doanh nghiệp, góp phần vào thành công của sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá của cả nước.. Kinh tế của
thủ đô Hà Nội đã có tác động không nhỏ đến sự phát triển chung của đất nước, những
năm qua Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm đặc biệt đến sự phát triển kinh tế - xã hội
của Hà Nội.
Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị đã đề ra những nhiệm vụ chiến lược đối với Hà Nội:
“Trong 10 năm tới, đảm bảo xây dựng về cơ bản nền tảng vật chất kỹ thuật và xã hội
của Thủ đô xã hội chủ nghĩa” và quyết tâm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá Thủ đô”. Thực hiện Nghị quyết trên một số doanh nghiệp nhà nước ở
Hà Nội đã làm ăn có lãi, đứng vững trong cơ chế thị trường, đã tạo cho mình một diện
mạo mới, cung cách làm ăn mới. ở những doanh nghiệp đó tổ chức Công đoàn phát huy
được tinh thần sáng tạo và đóng góp của mọi thành viên trong doanh nghiệp, khẳng định
vai trò của mình trong việc xây dựng Văn hoá doanh nghiêp.
Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều doanh nghiệp chỉ chú trọng đến lợi nhuận, coi lợi
nhuận như là một “tiêu chuẩn duy nhất” để tồn tại doanh nghiệp, không quan tâm đến
việc xây dựng “Văn hoá doanh nghiêp”. Từ đó dẫn đến lương tâm, phẩm giá của người
lao động bị giảm sút, nạn ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội, các bệnh hiểm nghèo
cũng phát triển theo. Một số doanh nghiệp khác cũng không quan tâm xây dựng VHDN
nên làm ăn kém hiệu quả, chất lượng sản phẩm không đảm bảo, trình độ quản lý, kinh
doanh kém, cạnh tranh không lành mạnh, không trả lương, trả thưởng cho người công
nhân đúng thời hạn, không đảm bảo vệ sinh an toàn lao động, làm cho người lao động
không hứng thú làm việc, không không gắn bó với doanh nghiệp. Tất cả những điều ấy
cho thấy, các doanh nghiệp thiếu hẳn vai trò của văn hoá trong sản xuất kinh doanh.
Hay nói một cách khác là các doanh nghiệp chưa thực sự hình thành cho mình một
VHDN.
Do vậy, vấn đề đặt ra cho Đề tài này là phải khảo sát thực tiễn, rút ra bài học kinh
nghiệm, về xây dựng mô hình VHDN gắn với vai trò của tổ chức Công đoàn trong các
doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn Hà Nội, nhằm phát huy được vai trò của DNNN
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và Hà Nội nói riêng.
Về mặt lý luận và thực tiễn việc nghiên cứu VHDN ở nước ta chưa được chú ý.
Hiện nay, mới có một số nhà nghiên cứu chỉ đề cập đến VHDN trên bình diện văn hoá
trong kinh doanh, hoặc khai thác một vài khía cạnh của VHDN như: Tinh thần doanh
nghiệp, Đạo đức kinh doanh, Triết lý kinh doanh, chưa có đề tài nào nghiên cứu VHDN
trên bình diện chung. Đặc biệt chưa có đề tài nào nghiên cứu xây dựng VHDN trong các
doanh nghiệp nhà nước gắn với vai trò của tổ chức Công đoàn trong doanh nghiệp nhà
nước, ở Thủ đô Hà Nội nói riêng cũng như phạm vi cả nước nói chung. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài: “ Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng
Văn hoá doanh nghiệp” trong các doanh nghiệp nhà nước ở Hà Nội là vấn đề rất cần
thiết. Bởi vì, vấn đề liên quan đến định hướng kinh tế - xã hội của đất nước, liên quan
đến vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong việc phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, chọn đề tài này làm luận văn tốt nghiệp hệ Cao
học chuyên ngành văn hoá học, là vấn đề rất có ý nghĩa cả về phương diện lý luận lẫn
phương diện thực tiễn, trong sự nhiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Về vấn đề VHDN trên thế giới mới được nghiên cứu trong mấy thập niên gần đây.
Trong cuốn sách “Văn hoá học - những bài giảng của A.A. RADGHIN, nhà xã hội học
người Mỹ, E.N.Schein đưa ra định nghĩa về Văn hoá Doanh nghiệp hay Văn hoá tổ
chức (E. Schein. San- Francínco. 1985).
Trong cuốn “ Dự báo thế kỷ XXI” của các nhà khoa học Trung Quốc, đã đề cập đến
vai trò của doanh nghiệp ở thế kỷ XXI và đưa ra lời khuyến cáo rằng: Nếu không chú ý
đến văn hoá, thì doanh nghiệp không thể phát triển được; Đạo đức, lương tâm nghề
nghiệp còn quan trọng hơn việc phát triển kỹ thuật mũi nhọn và cải cách thể chế của
doanh nghiệp. Nhận thức được những lời khuyến cáo trên ở Nhật Bản, Trung Quốc,
Anh, Pháp, Mỹ, Đức các doanh nghiệp đã chú trọng đến yếu tố văn hoá trong sản xuất,
kinh doanh và đã bắt đầu xây dựng VHDN của mình.
Gần đây trong khoá học chuyên đề: Xây dựng Văn hoá doanh nghiệp của trung tâm
hợp tác nguồn lực Việt Nam - Nhật Bản tháng 12 năm 2004 ở Hà nội người ta đã đưa ra
một khái niệm về Văn hoá tổ chức.
ở Việt Nam ta, đề cập đến mối quan hệ giữa văn hoá và kinh tế khá muộn. Trước
đây người ta cho rằng, văn hoá và kinh tế là hai lĩnh vực hoàn toàn tách biệt nhau,
không có mối quan hệ hỗ trợ, gắn bó nào. Đấy là một nhận thức sai lầm. Sau Đại hội VI
của Đảng, chúng ta bắt đầu đổi mới về tư duy, nhận thức, trước hết là đổi mới tư duy về
kinh tế. Chúng ta đã nhận thức được tầm quan trọng của văn hoá trong phát triển kinh
tế. Văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát phát triển kinh tế - xã hội. Mãi đến
năm 1995, tại Hà Nội, Trung tâm Khoa học xã hội - Nhân văn Quốc gia cùng với Uỷ
ban Quốc gia Unesco của Việt Nam mới phối hợp tổ chức cuộc Hội thảo "Văn hoá và
kinh doanh”. Trong Hội thảo này các Đại biểu quốc tế và Việt Nam đều nhất trí và
khẳng định rằng, giữa văn hoá và kinh tế có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ với nhau,
đồng thời chỉ ra rằng, trong kinh doanh yếu tố văn hoá đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Đến năm 2001, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương phối hợp với Bộ Văn hoá -
Thông tin và viện Quản trị Doanh nghiệp, xuất bản cuốn sách Văn hoá và kinh doanh.
Trong cuốn sách này các tác giả không đề cập đến “Văn hoá doanh nghiệp” mà chỉ nói
đến văn hoá trong kinh doanh, quan hệ giữa văn hoá với kinh doanh. Đây chỉ là những ý
kiến gợi mở để chúng ta có thể tham khảo, đồng thời bước đầu làm cơ sở cho việc xây
dựng lý luận về hình thành VHDN.
Ngoài ra, còn có một số công trình đã được nghiên cứu về VHDN và được công bố
như: Văn hoá và triết lý kinh doanh của tiến sĩ Đỗ Minh Cương (Xuất bản năm 2000).
Trong tác phẩm này, tiến sĩ Đỗ Minh Cương đã đưa ra định nghĩa về VHDN và cấu trúc
của nó. Nhưng tiến sĩ Đỗ Minh Cương lại không đi sâu hướng nghiên cứu này, mà chỉ
chọn vấn đề triết lý kinh doanh để nghiên cứu.
Năm 2003, tác giả Trần Quốc Dân đã cho ra đời cuốn sách” Tinh thần doanh
nghiệp giá trị định hướng của kinh doanh Việt Nam”.
Tác giả xác định: Tinh thần doanh nghiệp chính là giá trị định hướng của văn hoá
kinh doanh Việt Nam. Như vậy tác giả mới chỉ đi sâu nghiên cứu một yếu tố trong văn
hoá doanh nghiệp đó là “Tinh thần”. Ngoài ra có nhiều bài viết liên quan đến VHDN, được
đăng rãi rác trên các tạp chí khoa học. Nỗi bật hơn cả là bài: Bàn về Văn hoá và Văn hóa
kinh doanh của GS -TS Hoàng Vinh, đăng trong “ Thông tin Văn hoá và phát triển” của
Khoa Văn hoá XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2004. GS -
TS Hoàng Vinh đã đưa ra một quan niệm, muốn xây dựng thuật ngữ “Văn hoá kinh
doanh”.
Gần đây tại khoa Văn hoá XHCN, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, học
viên Cao học chuyên nghành Văn hoá học, Trần Thị Thuý Vân đã bảo vệ thành công
luận văn “ Xây dựng Văn hoá doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh”.
Luận văn này đã có những đóng góp nhất định về phương diện thực tiễn xây dựng
VHDN nói chung ở một địa phương (Tp Hồ Chí Minh), song chưa chú ý nhiều đến
VHDN của DNNN, đồng thời chưa quan tâm đến vai trò của tổ chức Công đoàn trong
các doanh nghiệp nhà nước với việc xây dựng VHDN.
Tóm lại, tất cả những công trình nghiên cứu, những bài viết đã nêu ở trên, của các
tác giả rất có ý nghĩa cho việc hình thành cơ sở lý luận về VHDN. Nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống về VHDN ở Việt Nam nói chung và ở
địa bàn Thủ Đô Hà Nội nói riêng đặc biệt trong DNNN. Vì vậy chúng tôi chọn đề tài
Văn hoá doanh nghiệp và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng văn hoá doanh
nghiệp trong doanh nghiệp nhà nước ở Thủ đô Hà Nội để nghiên cứu là nhằm muốn
được góp một phần nho nhỏ vào xây dựng cơ sở lý luận về VHDN đồng thời đưa ra một
số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng văn hoá doanh nghiệp
trong các DNNN và hoạt động Công đoàn cơ sở nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển
một cách bền vững trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích
- Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu, các tài liệu đã có, Luận văn khái
quát, hệ thống vấn đề mang tính lý luận: VHDN, cấu trúc văn hoá hoá doanh nghiệp và
vai trò của văn hoá doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp.
- Khảo sát, tìm hiểu thực trạng xây dựng văn hoá doanh nghiệp của một số doanh
nghiệp nhà nước và hoạt động Công đoàn trong việc xây dựng văn hoá doanh nghiệp, ở
thủ đô Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Từ đó, khẳng định vai trò của công đoàn cơ sở
đối việc xây dựng VHDN trong các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời đưa ra một số
phương hướng và giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả xây dựng và phát triển
doanh nghiệp, cũng như nâng cao vai trò hoạt động của Công đoàn cơ sở để giúp doanh
nghiệp phát triển một cách toàn diện và bền vững.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt dược mục đích trên, luận văn cần tập trung giải quyết những vấn đề sau:
- Làm rõ khái niệm VHDN trên cơ sở phân biệt các khái niệm liên quan như Văn
hoá, Văn hoá kinh tế, VHKD. Luận văn sẽ đưa ra một cách chia cấu trúc VHDN hợp lý,
để nắm bắt được thực chất “Văn hoá doanh nghiệp”và mô tả đầy đủ các yếu tố của nó.
Đồng thời chỉ ra vai trò đặc biệt quan trọng của VHDN trong sự phát triển bền vững của
doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng VHDN của một số doanh nghiệp nhà nước ở thủ đô
Hà Nội. Đưa ra một số phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
VHDN ở Thủ đô Hà Nội gắn với vai trò của tổ chức Công đoàn cơ sở trong doanh
nghiệp
4. Phạm vi nghiên cứu luận văn
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là một số doanh nghiệp nhà nước tiêu biểu trên
địa bàn thủ đô Hà nội, trong đó có cả doanh nghiệp trung ương và doanh nghiệp địa
phương.
5.Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu luận văn
5.1. Cơ sở lí luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các văn kiện của Đảng, Nhà nước và tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về doanh
nghiệp và phát triển doanh nghiệp trong tình hình mới.
Ngoài ra Luận văn còn tham khảo một số quan điểm lý luận trong các văn kiện của
Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân thành phố Hà nội, Liên đoàn Lao động Hà
nội về phát triển kinh tế Thủ đô trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đồng thời luận văn còn kế thừa các công trình nghiên cứu của tập thể và các cá
nhân liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng phương pháp biện chứng của chủ nghĩa duy vật Mác - Lênin về
các mối quan hệ vật chất và ý thức, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kinh tế và
văn hoá.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu điều tra xã hội học, khảo sát thực tế và
phỏng vấn chuyên gia và các nhà chuyên môn, cùng với phương pháp phân tích và tổng
hợp, so sánh và đối chiếu để nghiên cứu và trình bày các vấn đề của bản Luận văn.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần định hình khái niệm VHDN và cấu trúc của VHDN.
- Góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề xây dựng VHDN trong DNNN và khẳng
định vai trò to lớn của tổ chức Công đoàn trong việc xây dựng VHDN. Qua đó khẳng
định vai trò “chủ đạo” của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay.
- Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu cho việc nghiên cứu
những vấn đề văn hoá và kinh tế, cho việc giảng dạy lĩnh vực văn hoá ở các trường đại
học, đặc biệt là các trường đào tạo của hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương,
6 tiết.
Chương 1
Mấy vấn đề lý luận về Văn hoá Doanh nghiệp
và vai trò Công đoàn trong việc xây dựng
văn hóa doanh nghiệp
1.1. Tổng quan về văn hóa doanh nghiệp
1.1.1. Khái lược về “văn hoá”
Trong lịch sử phát triển xã hội và sự hoàn thiện nhân cách con người, văn hoá đồng
hành với con người trên tất cả mọi phương diện: hoạt động và sáng tạo. Hoạt động
nhằm bộc lộ sức mạnh bản chất người và hoàn thiện nhân tính. Sáng tạo như một đặc
trưng bản chất của con người, cái thước đo phân biệt tồn tại người với tồn tại vật, giữa ý
thức tự giác của người với bản năng tự phát của động vật, giữa tất yếu và tự do. Nhờ có
sáng tạo mà nhân tính mới được khẳng định và hoàn thiện, con người mới biểu hiện như
một chủ thể hoạt động và sáng tạo giá trị.
Văn hoá thống nhất trong đa dạng, thống nhất bao hàm bởi nhiều sự khác biệt. Nhờ
nó, tự bản chất nó, văn hoá mang thuộc tính một động lưc phát triển và mang ý nghĩa
của sự hoàn hảo, không ngừng vươn tới sự hoàn hảo. Bản chất văn hoá gắn liền với bản
chất con người. Dưới tác động của văn hoá, đặc biệt là văn hoá đạo đức và văn hoá
thẩm mỹ, con người có thể nảy nở khát vọng, nhu cầu trở nên tốt đẹp, cái mà từ lâu,
Mác gọi là sự nãy nở nhân tính, làm cho hoàn cảnh có tính người ngày càng nhiều hơn.
Giữa con người và văn hoá có quan hệ mật thiết với nhau. Khi nói văn hoá hay
nói con người, chỉ là những phạm trù tách ra để nhận thức, chúng là những đối tượng
được khu biệt trong nhận thức. Nhưng trong tính hiện thực bản thể của chúng, văn hoá
và con người luôn gắn liền với nhau, biểu hiện lẫn nhau. Không có con người và hoạt
động người thì không có văn hoá. Bởi không có một giá trị, một sản phẩm văn hoá nào
ra đời nếu không có bàn tay và khối óc của con người tạo nên. Ngược lại không có văn
hoá con người sẽ không thể tồn tại như một sinh thể xã hội.
Trong đời thường, từ văn hoá dùng để đánh giá, chỉ phẩm chất ưu việt của một con
người, một hiện tượng hay một sự vật nào đó. Chẳng hạn khi nói anh ấy cư xử rất văn
hoá (nghĩa là có lễ độ, đúng phép lịch sự) hoặc buổi diễn thuyết hôm nay rất văn hoá
(nghĩa là ý tưởng dồi dào, diễn đạt lưu loát, được đa số tán thưởng).
Đã có nhiều cách giải thích từ “Văn hoá”. Tuy diễn đạt khác nhau, nhưng có một số
điểm chung mà mọi người đều thừa nhận rằng: “Văn hoá” là phương thức tồn tại đặc
hữu của loài người, khác cơ bản với tổ chức đời sống các quần thể sinh vật trên trái đất.
Nó là cái do con người học được mà có, chứ không phải là cái bẩm sinh do di truyền.
Bàn về văn hoá, Viện sĩ người Pháp Teihard de Chardin có đưa ra một nhận định,
đại ý nói rằng: Trái đất hình thành và phát triển đến một lúc nào đó thì xuất hiện sự
sống, ông gọi đó là sinh quyển (Bisophere). Tiếp đó là sự ra đời của tri quyển
(Noosphere) gắn với sự xuất hiện của người khôn ngoan hiện đại (Hômo - Sapiens). Trí
quyển là quyển về ý thức, về tinh thần do con người tạo ra trong quá trình hoạt động
thực tiễn. Đó chính là văn hoá, biểu hiện như là “ Thế giới nhân tạo” của con người.
Để giải thích từ “Văn hoá”, các nhà văn hoá học phương Tây ngày nay thường chia
ra làm hai trường hợp:
Một là, từ “Văn hoá “ viết hoa, số ít (LaCulture) được chỉ định là một thuộc tính chỉ
có ở loài người. Nó là cái dùng để phân biệt giữa loài người và loài vật. Đó là khả năng
tư duy, học hỏi thích ứng và sáng tạo ra những quan niệm, biểu tượng, giá trị, làm cơ sở
cho hệ thống ứng xử, để loài người có thể tồn tại và phát triển.
Hai là, từ “Văn hoá” không viết hoa, số nhiều (LesCultures) chỉ những nền, “kiểu”
văn hoá khác nhau, tức là lối sống của các thể cộng đồng, biểu hiện trong những quan
niệm về giá trị, trong hệ thống các hành vi ứng xử, mà các cộng đồng người ấy học hỏi
được và sáng tạo ra trong hoạt động sống của họ. Đó còn là những truyền thống của
cộng đồng, hình thành nên trong các điều kiện xã hội - lịch sử nhất định.
Quan niệm về văn hoá trên đây tương đối phù hợp với định nghĩa văn hoá do
nguyên Tổng giám đốc UNESCO Fderico Mayord đưa ra, nhân dịp phát động “ Thập kỷ
thế giới phát triển văn hoá” (1988- 1997). Ông viết “Văn hoá là tổng thể sống động các
họat động sáng tạo(của các cá nhân và cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại.
Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các
truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc.”
Xuất phát từ quan niệm trên, các nhà xã hội học chia văn hoá thành hai hình thái:
văn hoá cá nhân và văn hoá cộng đồng.
Văn hoá cá nhân là toàn bộ vốn tri thức, kinh nghiệm tích luỹ vào mỗi các nhân,
biểu hiện ở hệ thống quan niệm và hành xử của các nhân ấy trong đời sống thực tiễn.
Văn hoá cộng đồng là văn hoá của một nhóm xã hội, nó không phải là số cộng giản
đơn của những văn hoá cá nhân - thành viên trong cộng đồng cộng lại. Văn hoá cộng
đồng là toàn bộ tri thức, kinh nghiệm, giá trị, phương thức ứng xữ…mà cả cộng động
cùng chia sẽ và chấp nhập, đã trở thành truyền thống của cộng đồng ấy. Định nghĩa văn
hoá của E Mayor vừa nêu trên chính là nói về nội dung và đặc điểm của Văn hoá công
đồng.
ở Việt Nam, việc nghiên cứu văn hoá với tư cách là một khoa học xã hội ra đời rất
muộn. Nhưng những nhận định, quan niệm về văn hoá thì có từ rất sớm, gắn với những
tên tuổi các học giả như Lê Quý Đôn (1773), Phan Kế Bính (1915), Đào Duy Anh
(1938), Nguyễn Văn Huyên (1944)…
Nhìn chung, các công trình của các ông được các nhà văn hoá hiện nay đánh