Ngày nay, vấn đề việc làm đã trở thành một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại cũng như của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vấn đề việc làm cho người lao động, chính sách tạo việc làm và chống thất nghiệp là một trong những tiêu chí bảo đảm định hướng XHCN, góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân" [10, tr.216].
Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng; do đó, có vai trò quan trọng làm cầu nối Thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng, thành phố du lịch Hạ Long; cung cấp sản phẩm hàng hóa quan trọng và là địa bàn tham gia vào quá trình trung chuyển hàng hóa giữa hệ thống cảng biển và các thành phố, các tỉnh trong vùng và cả nước. Chính vì vậy, Hải Dương vừa đóng vai trò là một trong những động lực phát triển, vừa phải đối mặt với các thách thức trong cạnh tranh khai thác và phát triển các ngành hàng có cùng lợi thế. Trong triển vọng, Hải Dương sẽ phải trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, du lịch thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực cho các thành phố lớn và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng.
Với vị trí địa lý thuận lợi, những năm gần đây, các khu công nghiệp ở Hải Dương phát triển rất mạnh, thu hút lực lượng lao động các địa phương về Hải Dương làm việc, góp phần giải quyết việc làm ở Hải Dương. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở Hải Dương còn thấp kém, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng, chất lượng lao động còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, cung- cầu về lao động mất cân đối, dẫn đến bức xúc ngày càng lớn về việc làm ở Hải Dương hiện nay.
Nhằm đánh giá chung đúng thực trạng việc làm và việc thực thi chính sách tạo việc làm để từ đó đưa ra những giải pháp giải quyết việc làm ở Hải Dương, tác giả luận văn đã chọn đề tài: "Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay".
111 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3074 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Bùi Thanh Thủy
Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay
Chuyên ngành : Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01
Luận văn thạc sĩ kinh tế
Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Quang Lâm
Hà Nội - 2005
Danh mục các chữ viết tắt
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
DNNN : Doanh nghiệp nhà nớc
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTX : Hợp tác xã
LLLĐ : Lực lợng lao động
UBND : Uỷ ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, vấn đề việc làm đã trở thành một trong những vấn đề có tính toàn cầu, là mối quan tâm lớn của toàn nhân loại cũng như của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, vấn đề việc làm cho người lao động, chính sách tạo việc làm và chống thất nghiệp là một trong những tiêu chí bảo đảm định hướng XHCN, góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: "Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng và yêu cầu bức xúc của nhân dân" [10, tr.216].
Hải Dương là một trong 8 tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nằm ở vị trí có nhiều hướng tác động mang tính liên vùng; do đó, có vai trò quan trọng làm cầu nối Thủ đô Hà Nội với thành phố cảng Hải Phòng, thành phố du lịch Hạ Long; cung cấp sản phẩm hàng hóa quan trọng và là địa bàn tham gia vào quá trình trung chuyển hàng hóa giữa hệ thống cảng biển và các thành phố, các tỉnh trong vùng và cả nước. Chính vì vậy, Hải Dương vừa đóng vai trò là một trong những động lực phát triển, vừa phải đối mặt với các thách thức trong cạnh tranh khai thác và phát triển các ngành hàng có cùng lợi thế. Trong triển vọng, Hải Dương sẽ phải trở thành trọng điểm thu hút đầu tư phát triển công nghiệp, du lịch thương mại, giải quyết việc làm để giảm áp lực cho các thành phố lớn và trở thành một trong các đô thị lớn trong vùng.
Với vị trí địa lý thuận lợi, những năm gần đây, các khu công nghiệp ở Hải Dương phát triển rất mạnh, thu hút lực lượng lao động các địa phương về Hải Dương làm việc, góp phần giải quyết việc làm ở Hải Dương. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở Hải Dương còn thấp kém, kinh tế phát triển không đồng đều giữa các vùng, chất lượng lao động còn thấp, tỷ lệ thất nghiệp còn cao, cung- cầu về lao động mất cân đối, dẫn đến bức xúc ngày càng lớn về việc làm ở Hải Dương hiện nay.
Nhằm đánh giá chung đúng thực trạng việc làm và việc thực thi chính sách tạo việc làm để từ đó đưa ra những giải pháp giải quyết việc làm ở Hải Dương, tác giả luận văn đã chọn đề tài: "Việc làm và chính sách tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, có một số tác giả đã đề cập đến các khía cạnh mà đề tài nghiên cứu quan tâm. Trong số đó có:
- PTS. Nguyễn Hữu Dũng, PTS. Trần Hữu Trung (chủ biên): "Về Chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997. Các tác giả đã trình bày tổng quát về phương pháp luận và phương pháp tiếp cận chính sách việc làm; làm rõ thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam hiện nay. Từ đó khuyến nghị định hướng một số chính sách cụ thể về việc làm trong công cuộc CNH, HĐH.
- TS. Nguyễn Bá Ngọc, KS. Trần Văn Hoan (chủ biên), "Toàn cầu hoá: cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam", Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội 2002. Các tác giả đã trình bày tổng quan tác động của toàn cầu hoá đến lao động và các vấn đề xã hội của Việt Nam, những xu hướng vận động của nguồn nhân lực, lao động và việc làm Việt Nam dưới tác động của toàn cầu hoá kinh tế, phân tích những cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Từ đó đề ra các giải pháp đối với lao động Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế.
- Thạc sĩ Nguyễn Thị Lan Hương: "Thị trường lao động Việt Nam: Định hướng và phát triển", Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, 2002. Tác giả đi từ việc phân tích các luận cứ cơ bản định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam, sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam. Từ đó đề xuất các giải pháp định hướng phát triển thị trường lao động Việt Nam giai đoạn 2001- 2010.
- Các bài viết "Lao động việc làm thời kỳ 1991- 2000 và phương hướng giai đoạn 2001- 2010" của TS. Lê Duy Đồng, Tạp chí Lao động và xã hội, số III- 2001; "WTO và vấn đề tạo việc làm cho người lao động" của TS. Đinh Trọng Thịnh, Tạp chí Kinh tế và phát triển, 6/2005. Trong đó các tác giả đi sâu vào các vấn đề như: Kết quả giải quyết việc làm, những mặt yếu kém và bất cập, phương hướng giải quyết việc làm, đặc biệt là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế...
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu vấn đề tạo việc làm ở Hải Dương dưới góc độ kinh tế chính trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
+ Mục đích:
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về lao động việc làm, quan niệm về việc làm và những nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm, luận văn phân tích thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương, chỉ ra xu hướng tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp chủ yếu để tạo việc làm ở Hải Dương trong thời gian tới.
+ Nhiệm vụ:
- Làm rõ quan niệm về việc làm, chính sách tạo việc làm, những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tạo việc làm.
-Tập trung phân tích thực trạng: Số lượng, cơ cấu, chất lượng lao động ở Hải Dương, thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương hiện nay.
-Bước đầu nêu ra những giải pháp để tạo việc làm ở Hải Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn đề cập tới vấn đề tạo việc làm cho toàn bộ lực lượng lao động do Trung ương cũng như do tỉnh quản lý đang sinh sống và làm việc trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, có chú trọng bàn đến nhiều hơn vấn đề tạo việc làm cho lao động do tỉnh trực tiếp quản lý.
- Bối cảnh lịch sử và thực tiễn chính mà luận văn khai thác là Hải Dương thời kỳ đổi mới, cụ thể là từ 1996 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn trình bày dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam, những chủ trương, chính sách của Nhà nước về việc làm. Đồng thời, luận văn có sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp kết hợp logic với lịch sử, phương pháp trừu tượng hoá khoa học. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, điều tra xã hội học.
6. Những kết quả đạt được của luận văn
- Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận chung về việc làm, chính sách tạo việc làm.
- Đánh giá đúng thực trạng tạo việc làm ở Hải Dương, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm tạo việc làm, thu hút lao động ở Hải Dương hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn về tạo việc làm ở Hải Dương để phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban ngành trong tỉnh tham khảo trong quá trình hoạch định các chính sách nhằm tạo việc làm trên địa bàn tỉnh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.
Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC LÀM VÀ CHÍNH SÁCH TẠO VIỆC LÀM
1.1. Những vấn đề lý luận chung về lao động, việc làm và chính sách tạo việc làm
1.1.1. Quan niệm về việc làm và những khái niệm liên quan
Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ các nhu cầu của đời sống con người. Do đó nó là hoạt động cơ bản nhất của con người, là tiêu thức để phân biệt hoạt động của con người với hoạt động theo bản năng của con vật. Lao động không những tạo ra của cải mà còn cải tạo bản thân con người, phát triển con người cả về mặt thể lực và trí lực. Các Mác khẳng định:
Lao động trước hết là quá trình diễn ra sự tác động giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng sự hoạt động của chính mình, con người làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài thông qua sự vận động đó và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng thời làm thay đổi bản tính của chính nó [24, tr. 230].
Với ý nghĩa đó, lao động là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi người trong mỗi quốc gia. Để thực hiện quyền và nghĩa vụ đó, người lao động cần có việc làm hợp pháp, do đó việc làm là điều kiện để quá trình lao động được diễn ra và cũng là cơ sở để người lao động có thu nhập, đảm bảo ổn định đời sống của bản thân con người và của toàn xã hội.
1.1.1.1. Các quan niệm khác nhau về việc làm
Việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu, là một trong những vấn đề chủ yếu nhất của toàn bộ đời sống xã hội. Khái niệm việc làm và khái niệm lao động không giống nhau, nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau. Việc làm thể hiện mối quan hệ của con người với những chỗ làm việc cụ thể, là những giới hạn xã hội cần thiết trong đó lao động diễn ra, đồng thời nó là điều kiện cần thiết để thoả mãn nhu cầu xã hội về lao động, là nội dung chính của hoạt động con người. Về góc độ kinh tế, việc làm thể hiện mối tương quan giữa sức lao động và tư liệu sản xuất, giữa yếu tố con người và yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất.
Đối với mỗi cá nhân, gia đình và mỗi chính phủ trong từng quốc gia, việc làm là vấn đề quan trọng được quan tâm hàng đầu. Quan niệm về việc làm không cố định mà nó được xét trên nền tảng của một chế độ chính trị, gắn với trình độ phát triển kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội của mỗi quốc gia, mỗi thời đại. Khi trình độ phát triển mọi mặt, đặc biệt là định hướng chính trị của một quốc gia thay đổi, quan niệm việc làm cũng biến đổi. John Maynad Keynes (1883 - 1946) nhà kinh tế học nổi tiếng của nước Anh - đã viết: "Một nền kinh tế tiền tệ, như chúng ta sẽ thấy về thực chất là nền kinh tế trong đó những quan điểm luôn thay đổi về tương lai, có khả năng ảnh hưởng tới số lượng việc làm chứ không chỉ định hướng việc làm mà thôi".
Theo Ghi- Hân- Tơ nhà kinh tế thuộc Viện Hải quan Luân Đôn thì: Việc làm theo nghĩa rộng là toàn bộ các hoạt động kinh tế của một xã hội nghĩa là tất cả những gì quan hệ đến cách kiếm sống của con người, kể cả quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn hành vi tạo thành khuôn khổ của quá trình kinh tế.
Theo quan niệm này, tất cả các hoạt động, hành vi mang lại nguồn thu nhập để đảm bảo cuộc sống cho mọi người đều gọi là việc làm. Như vậy đã đồng nhất việc làm hợp pháp và bất hợp pháp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay không thể chấp nhận được quan niệm này, bởi khi các quan hệ thị trường ngày càng phát sinh cả những mặt tích cực và tiêu cực, nhiều nguồn thu nhập không chính đáng đang làm gia tăng các tệ nạn xã hội, kìm hãm sự tăng trưởng, phát triển của nền kinh tế đất nước.
Tiến sỹ Sônhin và phó tiến sỹ Grin- xốp người Nga quan niệm: Việc làm là sự tham gia của người có khả năng lao động vào một hoạt động xã hội có ích trong công việc nội trợ, hay trong kinh tế phụ của các nông trang viên.
Quan niệm này cho rằng tất cả những người có công việc ổn định trong guồng máy hoạt động kinh tế - xã hội, kể cả những người làm công việc nội trợ, làm kinh tế phụ của nông trang viên, người đi học đều gọi là có việc làm. Quan niệm này có ưu điểm là xác định lao động của người nội trợ và người làm kinh tế phụ đều là việc làm, vì nó góp phần tạo ra thu nhập để trực tiếp hoặc gián tiếp nuôi sống bản thân. Nhưng quan niệm này chưa chính xác khi cho rằng những người đi học là có việc làm. Bởi vì những người đi học, ngay cả học sinh, sinh viên các trường chuyên nghiệp đều chưa có khả năng tạo ra thu nhập để nuôi sống bản thân, các khoản chi tiêu của họ đều phụ thuộc vào thu nhập của người khác, của xã hội. Đa số những người đi học trong độ tuổi lao động nhưng không thuộc lực lượng lao động (học sinh phổ thông trung học, học sinh các trường chuyên nghiệp). Sở dĩ có quan niệm như trên vì trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung của mô hình CNXH trước đây, học sinh, sinh viên, các trường chuyên nghiệp đều được coi là người có việc làm vì sau khi ra trường họ đều được phân công công tác, không có thất nghiệp.
Giăng - Mu - Li, Phó cố vấn kinh tế của văn phòng lao động quốc tế lại cho rằng: Việc làm có thể được định nghĩa như một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền hoặc hiện vật, do có một sự tham gia tích cực có tính chất cá nhân và trực tiếp vào nỗ lực sản xuất.
Quan niệm này phát triển hơn, khái quát hơn hai quan niệm trên. Tuy nhiên, nếu chỉ có những hoạt động được trả công bằng tiền hoặc hiện vật mới được coi là việc làm thì chưa thoả đáng. Những người nằm trong lực lượng lao động nhưng làm công việc nội trợ, bản thân họ không nhận được tiền công, tiền lương bằng tiền hay hiện vật từ xã hội, từ người sử dụng lao động mà chỉ nhận được sự phân phối lại trực tiếp thu nhập từ các thành viên trong gia đình. Họ không trực tiếp mà gián tiếp tạo ra thu nhập trực tiếp, họ nhận được thu nhập gián tiếp thông qua điều tiết thu nhập từ các thành viên trong gia đình có việc làm hưởng tiền lương trong xã hội. Vậy, họ là những người có việc làm, đảm nhận một chức năng trong guồng máy chỉ đạo xã hội - nghề nội trợ.
Vậy quan niệm việc làm như thế nào là hợp lý?
Trong thực tiễn của đời sống kinh tế - xã hội, có việc làm được coi là hợp pháp, chính đáng song cũng có việc làm tạo ra thu nhập nhưng lại được coi là bất chính. Sự phân biệt này dựa trên cơ sở luật pháp và ý thức hệ của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ, giai đoạn của trình độ phát triển. Quan niệm về việc làm hợp pháp phải là việc làm mang lại thu nhập chính đáng cho con người - nghề hợp pháp - tương ứng với pháp luật của mỗi nước cho phép.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra quan niệm về người có việc làm như sau: "Người có việc làm là những người làm một việc gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc được thanh toán bằng hiện vật hoặc những người tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình, không nhận được tiền công hay hiện vật" [ 4, tr.47].
Như vậy, người có việc làm bao gồm những người lao động ở tất cả các khu vực (công và tư) có thu nhập đem lại nguồn sống cho bản thân, gia đình và xã hội. Đây là một khái niệm mềm dẻo phù hợp với nền kinh tế thị trường, phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần. Do đó, khái niệm này đã được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Theo chúng tôi thì, nếu lao động là quá trình tiêu dùng sức lao động, quá trình đó chỉ có diễn ra khi đã được dựa trên giả định những tiền đề vật chất cho quá trình đó đã đầy đủ. Trên bình diện một nước cụ thể, thì quá trình lao động sản xuất (việc làm) của một bộ phận dân cư có sức lao động lại được giả định trên cơ sở số lượng việc làm. Do đó, việc làm không chỉ diễn ra trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, mà cả quan hệ giữa con người với con người, trong đó liên quan đến các lợi ích kinh tế và luật pháp khi đã tạo lập đầy đủ các yếu tố vật chất cho quá trình đó có thể diễn ra. Do đó việc làm là một phạm trù tổng hợp liên kết các quá trình kinh tế, xã hội và nhân khẩu, thuộc loại vấn đề chủ yếu của toàn bộ đời sống xã hội.
ở nước ta, sau khi giành được độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Chúng ta phải ra sức đấu tranh làm cho nhân dân ai cũng được ăn no, mặc ấm, có việc làm, có giờ nghỉ, được học tập " và xác định đó là trách nhiệm của Đảng và Chính phủ. Bác nói: "Bất cứ làm nghề gì có ích cho nước nhà, cho nhân dân, cho giai cấp đều vẻ vang. Bất cứ nấu bếp, quét nhà hay làm Chủ tịch đều phải lao động cả, làm gì có ích nước, lợi dân là vẻ vang" [26, tr.59].
Nhưng trong một thời kỳ khá dài, chúng ta đã có quan niệm chưa đúng. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, còn làm nội trợ, kinh tế gia đình, kinh doanh, hành nghề cá thể thì chưa được xem là có việc làm chính đáng. Quan điểm đó dẫn đến tình trạng mọi người chen chân nhau tìm việc làm trong khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể. Đó là một trong những nguyên nhân làm cho số người làm việc trong khu vực kinh tế quốc doanh tăng lên quá mức so với khối lượng sản xuất, công tác đảm nhận; kinh tế tập thể phát triển nhanh về số lượng nhưng thiếu vững chắc; còn kinh tế gia đình thì teo đi; kinh tế tư nhân, cá thể không phát triển được.Tình hình đó gây tác hại không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, làm mai một khá nhiều nguồn công việc làm trong xã hội, đưa vấn đề giải quyết việc làm đến chỗ khó khăn, bế tắc.
Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, quan niệm về việc làm đã được thay đổi một cách căn bản. Trên cơ sở học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng khái niệm việc làm của ILO và nghiên cứu điều kiện cụ thể của Việt Nam, chúng ta đã có khái niệm thống nhất về việc làm được khẳng định trong Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: "Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm" [8, tr.163].
Từ quan niệm trên ta thấy: Khái niệm việc làm bao hàm các nội dung sau:
+ Là hoạt động lao động của con người.
+ Hoạt động lao động nhằm mục đích tạo ra thu nhập.
+ Hoạt động lao động đó không bị pháp luật cấm.
Với khái niệm việc làm như trên đã xoá bỏ được quan niệm cứng nhắc trước đây là chỉ những người "trong biên chế nhà nước"mới là người có việc làm. Việc làm không chỉ trong biên chế, mà còn ngoài biên chế, không chỉ ngoài xã hội, mà còn tại gia đình. Với khái niệm việc làm như vậy, tất cả những ai đang làm việc trong các thành phần kinh tế, trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, xí nghiệp, trường học hoặc tại gia đình (kể cả nội trợ) đều được coi là có việc làm.
Như vậy, khái niệm việc làm được mở rộng về nội hàm và tạo ra khả năng to lớn giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm cho nhiều người. Việc chuẩn và lượng hoá khái niệm việc làm tạo ra cơ sở thống nhất trong lĩnh vực điều tra, nghiên cứu và hoạch định các chính sách về việc làm.
1.1.1.2. Một số khái niệm có liên quan
+ Dân số trong độ tuổi lao động: Là những người ở độ tuổi lao động theo quy định của luật pháp.
ở Việt Nam hiện nay, theo Bộ luật Lao động quy định độ tuổi lao động là những người đủ 15 tuổi đến 60 tuổi (với nam) và đủ 15 tuổi đến 55 tuổi (với nữ).
+ Nguồn lao động: Gồm những người đủ 15 tuổi trở lên có việc làm và những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, nhưng:
- Đang thất nghiệp
- Đang đi học
- Đang làm nội trợ trong gia đình mình.
- Không có nhu cầu làm việc.
- Những người thuộc tình trạng khác (bao gồm cả những người nghỉ hưu trước tuổi theo quy định của Bộ luật Lao động)
+ Lực lượng lao động:
Theo quan niệm của ILO: Lực lượng lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.
+ Sức lao động: Theo C.Mác: "...Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó" [25, tr.25].
+ Người có việc làm: là người đủ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân, với thời gian làm việc không ít hơn mức chuẩn quy định cho người có việc làm trong tuần lễ tham khảo.
Mức chuẩn ở Việt Nam: Làm việc ít nhất 16 giờ trong một tuần.
+ Người thiếu việc làm:
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thì người thiếu việc làm là người trong tuần lễ tham khảo có số giờ làm việc dưới mức quy định chuẩn cho người có đủ việc làm và có nhu cầu làm thêm.
ở Việt Nam hiện nay, mức chuẩn về thời gian làm việc cho người thiếu việc làm là làm việc dưới 40 giờ (5 công) trong tuần lễ tham khảo hoặc trong tuần lễ tham khảo không làm v