Bước sang thiên niên kỷ mới, trong xu thế luôn vận động và đi lên không ngừng
của toàn xã hội, với cơ chế thị trường rộng mở có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước ta lựa chọn, nền kinh tế nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu khởi sắc đáng mừng.
Trong cơ chế thị trường, để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, giúp doanh nghiệp
đứng vững và phát triển đòi hỏi bản thân doanh nghiệp phải tự đổi mới cho phù h ợp
với sự phát triển chung của toàn xã hội, phải vươn lên t ự khẳng định mình, chỉ có
những doanh nghiệp tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh của mình một cách có hiệu
quả thì mới có thể t ồn tại và phát triển.
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp nói riêng và thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia nói chung, thương mại đã và đang trở
thành một trong những lĩnh vực, một kênh phân phối, không thể thiếu được trong nền
kinh tế thị trường hiện nay. Cũng như bất kỳ các loại hình doanh nghiệp khác vấn đề
huy động và sử dụng vốn luôn luôn được đặt lên hàng đầu. Vốn thể hiện giá trị toàn bộ
tài sản và các nguồn lực của doanh nghiệp, không có vốn thì không thể tiến hành bất
kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Vì vậy, vốn kinh doanh có vai trò quyết định đến sự
sống còn của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp thương mại
cũng phải luôn tìm kiếm, khai thác các nguồn tài chính thích hợp, đồng thời phải tính
toán, lựa chọn việc sử dụng các nguồn vốn tạo được sao cho có hiệu quả nhất. “Buôn
tài không bằng dài vốn”. Vốn ít thì chỉ có thể buôn bán nhỏ, vốn dài mới có thể buôn
bán lớn và buôn bán xa. Mặt khác, do đặc thù của hoạt động kinh doanh, vốn của các
doanh nghiệp thương mại chủ yếu là vốn lưu động, chiếm khoảng 70 – 80% vốn kinh
doanh nên việc huy động các nguồn vốn cho các doanh nghiệp này đóng vai trò rất
quan trọng.
Chính vì tầm quan trọng trên của vốn đã đưa em đến quyết định chọn đề tài:
“Vốn và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp”. Đề
tài của em gồm có 3 phần:
Phần I : Lý luận chung về vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp thương m ại.
Phần II: Tình hình huy động và sử dụng vốn tại công ty thương m ại Công Nghệ
Phẩm Hà Tây.
Phần III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty
thương mại Công Nghệ Phẩm Hà Tây.
82 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3463 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vốn và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Vốn và các biện pháp nâng cao hiệu quả
sử dụng vốn trong doanh nghiệp
Mở đầu
Bước sang thiên niên kỷ mới, trong xu thế luôn vận động và đi lên không ngừng
của toàn xã hội, với cơ chế thị trường rộng mở có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN mà Đảng và Nhà nước ta lựa chọn, nền kinh tế nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu khởi sắc đáng mừng.
Trong cơ chế thị trường, để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, giúp doanh nghiệp
đứng vững và phát triển đòi hỏi bản thân doanh nghiệp phải tự đổi mới cho phù hợp
với sự phát triển chung của toàn xã hội, phải vươn lên tự khẳng định mình, chỉ có
những doanh nghiệp tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh của mình một cách có hiệu
quả thì mới có thể tồn tại và phát triển.
Để nâng cao hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp nói riêng và thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia nói chung, thương mại đã và đang trở
thành một trong những lĩnh vực, một kênh phân phối, không thể thiếu được trong nền
kinh tế thị trường hiện nay. Cũng như bất kỳ các loại hình doanh nghiệp khác vấn đề
huy động và sử dụng vốn luôn luôn được đặt lên hàng đầu. Vốn thể hiện giá trị toàn bộ
tài sản và các nguồn lực của doanh nghiệp, không có vốn thì không thể tiến hành bất
kỳ một hoạt động kinh doanh nào. Vì vậy, vốn kinh doanh có vai trò quyết định đến sự
sống còn của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp thương mại
cũng phải luôn tìm kiếm, khai thác các nguồn tài chính thích hợp, đồng thời phải tính
toán, lựa chọn việc sử dụng các nguồn vốn tạo được sao cho có hiệu quả nhất. “Buôn
tài không bằng dài vốn”. Vốn ít thì chỉ có thể buôn bán nhỏ, vốn dài mới có thể buôn
bán lớn và buôn bán xa. Mặt khác, do đặc thù của hoạt động kinh doanh, vốn của các
doanh nghiệp thương mại chủ yếu là vốn lưu động, chiếm khoảng 70 – 80% vốn kinh
doanh nên việc huy động các nguồn vốn cho các doanh nghiệp này đóng vai trò rất
quan trọng.
Chính vì tầm quan trọng trên của vốn đã đưa em đến quyết định chọn đề tài:
“Vốn và các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp”. Đề
tài của em gồm có 3 phần:
Phần I : Lý luận chung về vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp thương mại.
Phần II: Tình hình huy động và sử dụng vốn tại công ty thương mại Công Nghệ
Phẩm Hà Tây.
Phần III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của công ty
thương mại Công Nghệ Phẩm Hà Tây.
Sau khi hoàn thành chương trình học tập tại Trường Đại Học Dân Lập Phương
Đông, tôi đã được các thầy, cô giáo truyền đạt kiến thức và thực tập, tiếp cận với thực
tế tại Công ty thương mại công nghệ phẩm Hà Tây và đặc biệt được sự giúp đỡ tận
tình của thầy giáo – TS. Nghiêm Sĩ Thương cùng với các cán bộ công nhân viên trong
công ty thương mại công nghệ phẩm Hà Tây, tôi đã hoàn thành được chuyên đề thực
tập tốt nghiệp này.
Do thời gian, và trình độ có hạn, nhất là tài liệu tham khảo hạn hẹp nên không
tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiền của các thầy,
cô giáo để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Phần I
Lý luận chung về vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp thương mại.
I. Khái niệm và vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh thương mại.
1. Khái niệm.
Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên các lĩnh vực sản xuất,
lưu thông , dịch vụ.... thể hiện sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ và tính chất
sản xuất kinh doanh, sự khác biệt đó phần lớn là do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng
doanh nghiệp quyết định. Cho dù sự khác biệt này thể hiện đến đâu chăng nữa thì theo
ngôn ngữ kinh tế học người ta thường gọi nó là đầu vào và đầu ra.
Một đầu vào hay một nhân tố sản xuất là một hàng hoá hay một dịch vụ mà các
doanh nghiệp sử dụng trong quá trình sản xuất của họ. Các đầu vào được kết hợp với
nhau để sản xuất ra các đầu ra, còn đầu ra bao gồm hàng loạt các hàng hoá hay dịch vụ
có ích được tiêu dùng hay được sử dụng trong quá trình sản xuất khác.
Để có các yếu tố đầu vào, trước hết nhà doanh nghiệp phải huy động trong tay
mình được một lượng tiền nhất định. Số tiền này được được dùng vào việc xây dựng
nhà xưởng, nhà kho, mua sắm các thiết bị, phương tiện và trả lương cho công nhân
viên. Do có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao
động, hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Để đảm bảo cho sự tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo
bù đắp toàn bộ các chi phí bỏ ra và có lãi.
Trong các doanh nghiệp thương mại vốn kinh doanh được biểu hiện bằng tiền
của toàn bộ tài sản và các nguồn lực mà doanh nghiệp sử dụng trong hoạt động kinh
doanh bao gồm:
- Tài sản hiện vật như nhà kho, cửa hàng, hàng hóa dự trữ.
- Tiền Việt Nam, ngoại tệ, vàng và đá quý.
- Bản quyền sở hữu trí tuệ và các tài sản vô hình khác.
2. Vai trò của vốn kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại có vai trò quyết định trong việc
thành lập, hoạt động, phát triển của từng loại hình doanh nghiệp theo luật định. Nó là
điều kiện quyết định và quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại phát triển của các doanh
nghiệp. Tuỳ theo nguồn của vốn kinh doanh, cũng như phương thức huy động vốn mà
doanh nghiệp có tên là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp liên doanh…
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại lớn hay nhỏ là một trong những
điều kiện quan trọng để xếp doanh nghiệp đó vào loại quy mô lớn, trung bình hay nhỏ,
đồng thời cũng là một trong những điều kiện để sử dụng các nguồn tiềm năng hiện có
và sẽ có trong tương lai về sức lao động, nguồn hàng hóa, mở rộng và phát triển thị
trường, mở rộng lưu thông hàng hóa, là điều kiện để phát triển kinh doanh.
Vốn kinh doanh thực chất là nguồn của cải của xã hội được tích luỹ lại, tập
trung lại. Nó chỉ là một điều kiện, một nguồn khả năng để đẩy mạnh hoạt động kinh
doanh. Tuy nhiên nó chỉ phát huy tác dụng khi biết quản lý, sử dụng chúng một cách
đúng hướng, hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả.
Trong sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, huy động được vốn mới chỉ là bước
khởi đầu, quan trọng hơn và quyết định hơn là nghệ thuật phân bố, sử dụng số vốn với
hiệu quả cao nhất, điều đó có ảnh hưởng đến vị thế của doanh nghiệp trên thương
trường bởi vậy cần phải có chiến lược bảo toàn và sử dụng có hiệu quả vốn kinh
doanh.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại là yếu tố về giá trị. Nó chỉ phát
huy tác dụng khi bảo toàn được và tăng lên được sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Nếu vốn
không được bảo toàn và tăng lên trong mỗi chu kỳ kinh doanh thì đồng vốn đó đã bị
thiệt hại, hay nói cách khác đó là hiện tượng mất vốn. Nếu sự thiệt hại này là lớn sẽ
dẫn đến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán và lâm vào tình trạng bị phá sản. Đây
chính là nguyên nhân của việc sử dụng một cách lãng phí, không có hiệu quả các đồng
vốn huy động được.
II. phân loại và đặc điểm của nguồn vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp
thương mại.
1. Phân loại vốn kinh doanh.
Vốn kinh doanh của doanh ngiệp thương mại có thể được xem xét, phân loại
theo các tiêu thức và góc độ sau:
- Theo quy định pháp luật chia thành:
+ Vốn pháp định: Là mức vốn tối thiểu phải có để thành lập doanh nghiệp do pháp luật
quy định đối với từng ngành, nghề, và từng loại hình sở hữu doanh nghiệp. Dưới mức
vốn pháp định thì không thể đủ điều kiện để thành lập doanh nghiệp.
+ Vốn điều lệ: là số vốn do các thành viên đóng góp và được ghi vào điều lệ của doanh
nghiệp. Tuỳ theo ngành , nghề và loại hình doanh nghiệp nhưng vốn điều lệ không
được nhỏ hơn vốn pháp định
- Theo góc độ hình thành vốn kinh doanh, có:
+ Vốn đầu tư ban đầu: Là số vốn phải có khi thành lập doanh nghiệp, tức là số vốn
cần thiết để đăng ký kinh doanh, hoặc số vốn góp của công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân hoặc vốn do nhà nước giao.
Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn: gồm vốn đóng góp của tất cả các thành
viên phải được đóng góp ngay khi thành lập công ty.
Đối với công ty cổ phần : Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phàn
bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị của mỗi cổ phần được gọi là mệnh giá cổ phiếu.
+ Vốn bổ sung: Là số vốn tăng thêm do bổ sung từ lợi nhuận, do nhà nước bổ sung
bằng phân phối hoặc phân phối lại nguồn vốn, do sự đóng góp của các thành viên, do
bán trái phiếu.
+ Vốn do liên doanh: Là số vốn đóng góp do các bên cùng cam kết liên doanh với
nhau để hoạt động thương mại hoặc dịch vụ.
+ Vốn đi vay: Trong hoạt động kinh doanh ngoài số vốn tự có và coi như tự có,
doanh nghiệp còn sử dụng một khoản vốn đi vay khá lớn của ngân hàng. Ngoài ra,
còn có khoản chiếm dụng lẫn nhau của các đơn vị nguồn hàng khách hàng và bạn
hàng.
- Trên góc độ chu chuyển vốn kinh doanh :
Trong hoạt động kinh doanh, vốn kinh doanh vận động khác nhau. Xét trên
góc độ luân chuyển của vốn, người ta chia toàn bộ vốn của DNTM thành hai loại là
vốn lưu động và vốn cố định.
2. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
2.1. Vốn cố định.
2.1.1. Khái niệm.
Để tiến hành hoạt động kinh doanh, trước hết doanh nghiệp phải mua sắm xây
dựng và lắp đặt những tư liệu cần thiết cho hoạt động của mình. Thông thường thì
những tư liệu đó gồm: Các văn phòng, nhà kho, phương tiện vận chuyển ...
Những tư liệu lao động này có thể tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh,
chúng bị hao mòn đi một phần những vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu
và do đó, giá trị của chúng được chuyển dần từng phần vào giá trị sản phẩm. Để đơn
giản hoá công tác hạch toán và tăng cường hiệu quả của công tác quản lý, tư liệu lao
động được chia thành hai loại.
- Tài sản cố định là những tư liệu lao động có đủ hai điều kiện sau:
+ Thời gian sử dụng trên một năm.
+ Giá trị đạt đến một mức độ nhất định tuỳ theo sự quyết định của từng thời kỳ
(thường tính từ một năm trở lên).
- Công cụ lao động nhỏ là những tư liệu lao động bị thiếu một hoặc cả hai điều trên.
Hình thái của vốn cố định được biểu hiện dưới hai góc độ:
- Hiện vật: Đó là toàn bộ tài sản cố định dùng trong kinh doanh của các doanh
nghiệp bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc và thiết bị, công cụ, thiết bị đo
lường thí nghiệm, phương tiện vận tải, bốc dỡ hàng hóa…
- Tiền tệ: Đó là giá tài sản cố định chưa khấu hao và vốn khấu hao khi chưa được sử
dụng để sản xuất tài sản cố định, là bộ phận vốn cố định đã hoàn thành vòng luân
chuyển và trở về hình thái tiền tệ ban đầu. Vốn của toàn bộ các loại tài sản cố định
khác nhau chính là thành phần của nó.
2.1.2. Đặc điểm của tài sản cố định.
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của tài sản cố định là chúng luôn luôn bị
hao mòn trong cả khi sử dụng lẫn khi không sử dụng. Hao mòn của tài sản cố định gắn
liền với quá trình sử dụng và sự tác động của các yếu tố tự nhiên gọi là hao mòn hữu
hình, mức hao mòn hữu hình tỷ lệ thuận với thời gian và cường độ sử dụng tài sản.
Ngoài hao mòn hữu hình tài sản cố định còn có hao mòn vô hình, đó là sự hao mòn do
giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài sản cố định mà nguyên nhân trực tiếp của nó là do
sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật.
Một bộ phận giá trị của tài sản cố định tương ứng với mức hao mòn đó được
dịch chuyển dần dần vào giá trị sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Sau khi sản
phẩm hàng hoá được tiêu thụ số tiền khấu hao được trích lại và tích luỹ tành quỹ gọi là
quỹ khấu hao tài sản cố định. Quỹ khấu hao dùng để tái sản xuất giản đơn tài sản cố
định nên người ta thường gọi là quỹ khấu hao cơ bản.
Thời gian sử dụng tài sản cố định là tương đối dài và tiền khấu hao được trích
lập hàng năm, doanh nghiệp có thể dùng nó để mua thêm các tài sản cố định khác phục
vụ cho hoạt động kinh doanh nếu cần thiết, gọi là tái sản xuất tài sản cố định.
2.1.3. Phân loại vốn cố định.
- Theo công dụng, tài sản cố định của doanh nghiệp thương mại được chia thành:
Nhà làm việc hành chính, nhà kho, nhà cửa hàng, nhà để sửa chữa, để sản xuất
năng lượng (máy nổ hoặc máy điện), nhà để xe, phòng thí nghiệm…
+ Các công trình xây dựng và vật kiến trúc để tạo điều kiện để cần thiết cho thực hiện
các hoạt động nghiệp vụ trong kinh doanh thương mại như: cầu để bốc dỡ vật tư hàng
hóa, đường ô tô đi vào và ra, đường dây tải điện…
+ Các công cụ, máy móc, thiết bị, phương tiện cân đo, bảo quản, chưa đựng dùng
trong kinh doanh như các loại cân, các giá để chứa hàng, cần trục, cần cẩu, máy
chuyển tải (băng chuyền), phương tiện tính toán, báo động cứu hoả…
+ Các dụng cụ đồ nghề chuyên dùng để đóng gói hàng hóa, tháo mở bao bì, phân loại,
chuẩn bị hàng hóa…
+ Các loại phương tiện vận chuyển như ô tô tải, ô tô chuyên dùng, rơ móc, xe chuyển
hàng kéo tay, chạy điện…
+ Các loại tài sản cố định khác không ở các nhóm kể trên ngư bao bì tài sản,
côngtenơ..
- Theo mục đích sử dụng, các tài sản cố định được phân thành các nhóm sau:
+ Tài sản cố định dùng trong kinh doanh là những tài sản đang dùng trong kinh doanh,
sản xuất và dịch vụ của doanh nghiệp
+ Tài sản cố định hành chính sự nghiệp: là những tài sản dùng làm việc hành chính, sự
nghiệp như nhà làm việc hành chính, nhà tiếp khách, cơ quan của các đoàn thể, nhà
của y tế, văn hóa, thể dục thẻ thao…
+ Tài sản cố định phúc lợi: là những tài sản dùng cho nhu cầu phúc lợi công cộng của
doanh nghiệp như nhà điều dưỡng nghỉ mát, nhà ở của công nhân viên của doanh
nghiệp do doanh nghiệp tự xây dựng, các phương tiện vận chuyển của doanh nghiệp
đưa đón công nhân đi làm và về nhà…
+ Tài sản cố định chờ xử lý: là những tài sản không cần dùng, chưa cần dùng hoặc hư
hỏng đang chờ giải quyết để thanh lý.
Trong các doanh nghiệp thương mại không phải lúc nào, ở doanh nghiệp nào
cũng có đủ các thành phần nói trên của tài sản cố định. Lúc đầu, tài sản cố định thường
chỉ có một vài loại như nơi làm việc, nhà kho hoặc cửa hàng hay vừa làm nơi ở cho
những người độc thân. Tài sản cố định được tăng thêm nhờ xây dựng, cải tạo, mở rộng
hoặc mua sắm mới. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các loại tài sản cố định mới như các
máy móc, thiết bị, công cụ cân, đo, đong, xuất, nhập mới làm cho thành phần của tài
sản cố định ngày càng phong phú. Điều đó chứng tỏ cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh
nghiệp ngày càng hiện đại.
Tài sản cố định giữ nguyên hình thái vật chất của nó trong thời gian dài. Tài sản
cố định chỉ tăng lên khi có xây dựng cơ bản mới hoặc mua sắm. Tài sản cố định hao
mòn dần. Hao mòn có hai loại: hao mòn hữu hình (hao mòn kinh tế) và hao mòn vô
hình. Hao mòn vô hình chủ yếu do tiến bộ khoa học công nghệ mới và năng suất lao
động xã hội tăng lên quyết định. Hao mòn hữu hình phụ thuộc vào mức độ sử dụng
khẩn trương tài sản cố định và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến độ bền lâu dài của
tài sản cố định như:
+ Hình thức và chất lượng của tài sản cố định.
+ Chế độ quản lý, sử dụng tài sản cố định.
+ Chế độ bảo vệ, bảo dưỡng, sửa chữa thay thế thường xuyên, định kỳ đối với tài sản
cố định.
+ Trình độ kỹ thuật, tinh thần trách nhiệm của người sử dụng và sự quan tâm của cấp
lãnh đạo.
+ Các điều kiện tự nhiên và môi trường…
Hiện nay, vốn cố định của doanh nghiệp thương mại chiếm khoảng 1/3 toàn bộ
vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo tính chất, đặc điểm của từng loại vật tư
hàng hóa và sự cần thiết đáp ứng nhu cầu khách hàng, các doanh nghiệp thương mại
có tỷ lệ vốn cố định ít nhiều khác nhau, từ 10% đến 50%… Tuy nhiên một số doanh
nghiệp tài sản cố định còn thiếu, lại quản lý sử dụng không tốt, lãng phí, có ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng và hiệu quả của kinh doanh.
Cơ cấu tài sản cố định của các doanh nghiệp thương mại thường được tính bằng
các loại, số lượng tài sản cố định và tỷ trọng của mỗi loại so với toàn bộ tài sản cố định
của doanh nghiệp. Cơ cấu đó và sự thay đổi của nó là những chỉ tiêu quan trọng nói
lên trình độ kỹ thuật và khả năng phát triển hoạt động kinh doanh của ngành lưu thông
hàng hóa. Nó phản ánh đặc điểm hoạt động của từng doanh nghiệp và giúp cho việc
xác định phương hướng tái sản xuất mở rộng tài sản cố định.
Giá trị một loại TSCĐ
Chỉ tiêu cơ cấu TSCĐ = * 100%
Giá trị toàn bộ TSCĐ
2.2. Vốn lưu động.
2.2.1. Khái niệm.
Vốn lưu động là biểu hiện bằng tiền của tài sản lưu động và vốn lưu thông.
Vốn lưu động luôn luôn biến đổi hình thái từ tiền sang hàng và từ hàng sang tiền. Vốn
lưu động chu chuyển nhanh hơn vốn cố định. Vốn lưu động bao gồm: Vốn dự trữ hàng
hóa, vốn bằng tiền và các tài sản có khác.
Trong doanh nghiệp thương mại, vốn lưu động là khoản vốn chiếm tỷ trọng lớn
nhất có khi tới 80 đến 90% trong tổng số vốn. Đó là đặc điểm khác biệt của doanh
nghiệp thương mại đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. ở một thời
điểm nhất định, vốn của doanh nghiệp thương mại thường thể hiện ở các hình thái
khác nhau như hàng hóa dự trữ, vật tư nội bộ, tiền gửi ngân hàng, tiền mặt tồn quỹ, các
khoản phải thu và các khoản phải trả. Cơ cấu của chúng phụ thuộc rất lớn vào phương
thức thanh toán.
Vốn lưu động của doanh nghiệp thương mại khi chu chuyển phải qua 2 giai
đoạn:
- Mua hàng hóa (T-H), tức là biến tiền tệ thành hàng hóa.
- Bán hàng hóa (H’-T’), tức là biến hàng hóa thành tiền tệ.
( T’ =T +T).
Đầu tiên vốn lưu động biểu hiện dưới hình thức tiền tệ và khi kết thúc cũng lại
bằng hình thức tiền tệ (T-H-T’). Điều đó có nghĩa là: hàng hóa được mua vào không
phải để doanh nghiệp sử dụng mà để bán ra. Hàng hóa bán ra được tức là được khách
hàng chấp nhận và doanh nghiệp nhận được tiền doanh thu bán hàng và dịch vụ. Toàn
bộ vòng chu chuyển của vốn lưu động thể hiện bằng công thức chung T-H-T’, trong đó
: T’ =T +T.
Sự vận động của vốn lưu động trong hoạt dộng kinh doanh thương mại luôn
luôn trái với vận động của hàng hóa. Khi hàng hóa mua về doanh nghiệp thì phải trả
tiền, khi xuất hàng ra khỏi doanh nghiệp thì được nhận tiền. Kết quả của quá trình vận
động tiền tệ lại phản ánh đúng kết quả của hoạt động kinh doanh: Kinh doanh lãi hay
lỗ, mức độ lãi, lỗ.
2.2.2. Đặc điểm của tài sản lưu động.
Khác với tài sản cố định, tài sản lưu động luôn thay đổi hình thái biểu hiện, ở
trong các doanh nghiệp thương mại giá trị của nó được chuyển hầu hết vào hàng hoá
doanh nghiệp thu mua.
Tiếp đó hàng hoá được bán ra dưới nhiều hình thức, từ đó kết thúc vòng tuần
hoàn, hàng hoá sau khi tiêu thụ lại được chuyển sang vốn bằng tiền như điểm xuất
phát.
Trong thức tế, sự vận động của vốn lưu động không phải diễn ra một cách tuần
tự theo mô hình lý thuyết trên, mà các giai đoạn vận động của vốn lưu động được tiến
hành đan xen với nhau, trong khi một bộ phận vốn lưu động được chi cho hoạt động
thu mua hàng thì một bộ phận khác lại đang trong quá trình chuyển từ hàng hoá thành
tiền. Cứ như vậy chu kỳ kinh doanh tiếp tục lặp đi lặp lại, vốn lưu động được liên tục
tuần hoàn chu chuyển.
Trong các doanh nghiệp thương mại vốn lưu động có vai trò hết sức quan trọng,
có khi nó chiếm tới 80-90% trong tổng số vốn của doanh nghiệp vì vậy để quá trình tái
mở rộng hoạt động kinh doanh của mình đòi hỏi doanh nghiệp phải có dư vốn lưu
động để đầu tư vào các hình thái khác nhau từ đó tạo cho chúng có được mức tồn tại
hợp lý và đồng bộ.
2.2.3. Phân loại vốn lưu động.
- Theo công dụng của vốn lưu động, ta có:
+ Vốn nguyên vật liệu chính.
+ Vốn nguyên vật liệu phụ.
+ Vốn nhiên liệu.
+ Vốn tiền tệ và tài sản có quyết toán.
Vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc phải trải qua ba giai đoạn.
Biến tiền tệ thành dự trữ nguyên vật liệu chính, phụ, nhiên liệu, phụ tùng...
Biến nguyên nhiên vật liệu chính, phụ thành thành phẩm hàng hóa nhờ kết
hợp sức lao động và công cụ lao động (máy móc, thiết bị...).
Biến thành phẩm hàng hóa thành tiền tệ. Vốn lưu động phục vụ cho hai giai
đoạn trên là vốn sản xuất. Vốn lưu động ở giai đoạn thứ ba là vốn lưu thông.
Như vậy vốn lưu động của đơn vị sản xuất phụ thuộc gồm