Luận văn Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay

Gần 80 năm lãnh đạo cách mạng, đặc biệt sau Đại hội đổi mới (Đại hội VI năm 1986) đến nay; công tác cán bộ, công chức luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng và quan tâm. Hội nghị Trung ương 3 - khoá VIII, Đảng đã khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”[16]. Đảng ta quan tâm đối với cán bộ, công chức là sự quan tâm toàn diện, không chỉ cán bộ, công chức cấp cao, lãnh đạo, quản lý; cán bộ, công chức ở cấp trung ương, tỉnh, huyện mà cả cán bộ công chức bình th ường, đặc biệt là cán bộ, công chức ở cơ sở, xã, phường, thị trấn; Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã nhấn mạnh việc nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó xác định: “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chương trình nội dung sát hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ xã, phường”[19, tr.217], Nghị quyết Trung ương 5 - khoá IX khẳng định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở” và tại Nghị quyết Trung ương 6 - khoá X cũng đã xác định: “Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá, thể chế hoá và từng bước nhất thể hoá chức danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở”. Tổ chức thực hiện chủ trương trên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã đạt được những kết quả quan trọng, như đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã được chú trọng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, các chế độ chính sách ngày càng hoàn thiện; tăng thêm về mặt số lượng, trình độ và kiến thức các mặt được nâng lên. Tuy nhiên, bên cạnh đó công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã vẫn là khâu yếu kém: nội dung chương trình đào tạo còn bất cập; quy hoạch còn bị động, chắp vá; chế độ, chính sách chưa thật sự thoả đáng

pdf99 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 9009 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gần 80 năm lãnh đạo cách mạng, đặc biệt sau Đại hội đổi mới (Đại hội VI năm 1986) đến nay; công tác cán bộ, công chức luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng và quan tâm. Hội nghị Trung ương 3 - khoá VIII, Đảng đã khẳng định: “Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”[16]. Đảng ta quan tâm đối với cán bộ, công chức là sự quan tâm toàn diện, không chỉ cán bộ, công chức cấp cao, lãnh đạo, quản lý; cán bộ, công chức ở cấp trung ương, tỉnh, huyện mà cả cán bộ công chức bình thường, đặc biệt là cán bộ, công chức ở cơ sở, xã, phường, thị trấn; Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã nhấn mạnh việc nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức, trong đó xác định: “Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chương trình nội dung sát hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ xã, phường”[19, tr.217], Nghị quyết Trung ương 5 - khoá IX khẳng định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở” và tại Nghị quyết Trung ương 6 - khoá X cũng đã xác định: “Thực hiện mạnh mẽ chủ trương trẻ hoá, tiêu chuẩn hoá, thể chế hoá và từng bước nhất thể hoá chức danh cán bộ; tạo bước chuyển có tính đột phá về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cơ sở”. Tổ chức thực hiện chủ trương trên, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã đạt được những kết quả quan trọng, như đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã được chú trọng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng, các chế độ chính sách ngày càng hoàn thiện; tăng thêm về mặt số lượng, trình độ và kiến thức các mặt được nâng lên. Tuy nhiên, bên cạnh đó công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã vẫn là khâu yếu kém: nội dung chương trình đào tạo còn bất cập; quy hoạch còn bị động, chắp vá; chế độ, chính sách chưa thật sự thoả đáng… Chính điều này dẫn đến một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức cơ sở phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, suy thoái về đạo đức, lối sống, quan liêu, tham nhũng, lãng phí… Cấp xã (xã, phường, thị trấn) là một cấp trong hệ thống hành chính bốn cấp của Nhà nước Việt Nam, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ cấp trên giao, chăm lo mọi sinh hoạt và đời sống hằng ngày của nhân dân ở địa phương và là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Thực tiễn cho thấy nơi đâu có quan tâm đầy đủ và làm tốt công tác cán bộ, công chức ở cơ sở, có đội ngũ cơ sở vững mạnh thì nơi đó tình hình chính trị - xã hội ổn định, kinh tế, văn hoá phát triển, quốc phòng an ninh được giữ vững. Ngược lại, ở đâu công tác cán bộ không được quan tâm, đội ngũ cán bộ, công chức không đủ phẩm chất, năng lực và uy tín thì sẽ gặp khó khăn, có nhiều nơi còn tạo sơ hở cho kẻ địch lợi dụng, gây nên “điểm nóng” về chính trị. Điều đó cho thấy, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có vai trò rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở, tác động trực tiếp đến sự nghiệp cách mạng và đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Cà Mau là một tỉnh cuối cùng cực Nam của Tổ quốc, có nhiều dân tộc, tôn giáo cùng sinh sống trên địa bàn, có vị trí địa lý phức tạp (là vùng bán đảo, rừng, biển, đồng bằng và cả hải đảo) là vùng căn cứ kháng chiến nên chịu nhiều hậu quả của chiến tranh, là vùng đất mới, là bán đảo nên chịu nhiều thiên tai. Ngay từ khi tách tỉnh Minh Hải cũ tái lập tỉnh Cà Mau, cùng với những cơ hội và thuận lợi, tỉnh còn thiếu hụt trầm trọng và yếu kém của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở nói riêng. Trong những năm qua, việc tổng kết, đánh giá một cách có hệ thống và thường xuyên đội ngũ cán bộ, công chức (đặc biệt là cấp xã) chậm được tiến hành. Nhìn chung chưa có giải pháp đồng bộ, phù hợp với đặc thù của địa phương nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh nói chung, cán bộ, công chức cấp xã. Xuất phát từ những lý do trên, cùng với kinh nghiệm công tác của bản thân, kết hợp với kiến thức học được trong thời gian 03 năm ở Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, tác giả chọn đề tài: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp x ở tỉnh C Mau hiện nay” để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Vấn đề cán bộ, công chức cấp xã đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Liên quan trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng và quản lý đội ngũ cán bộ, công chức có một số công trình: - Đề tài khoa học cấp Bộ: Th.S Nguyễn Thế Vịnh - Vụ Chính quyền địa phương - Bộ Nội vụ (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo Nghị quyết Trung ương 5 (khoá IX), Hà Nội. - TS. Thang Văn Phúc và TS. Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên) (2001), Cơ sở lý luận thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. - Lê Thị Lý (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã trước yêu cầu đổi mới, Luận văn Thạc sĩ, Đại học quốc gia, Hà Nội. - Dương Hương Sơn, Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở tỉnh Quảng Trị hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Trần Tấn Tài, Đào tạo nguồn cán bộ quản lý hành chính nhà nước cấp xã trên địa bàn thành phố Cần Thơ - thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2004). Nguyễn Khắc Bộ, Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của chính quyền cơ sơ”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số tháng 3/2006. Những tài liệu trên đây chừng mực nhất định đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về cán bộ, công chức; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức như: khái niệm cán bộ, công chức, một số nội dung về xây dựng cán bộ, công chức; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức… Đến nay, chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu tương đối đầy đủ và toàn diện về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của một tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long nói chung và tỉnh Cà Mau nói riêng. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của luận văn không trùng với các công trình khoa học đã được công bố. Mặc dù vậy, các công trình khoa học trên đây là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và hoàn thiện bản luận văn này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích: Luận văn có mục đích là trên cơ sở nghiên cứu lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau, luận văn đề xuất các giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay. - Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau: + Nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở cấp xã. + Phân tích, đánh giá thành tựu và chỉ ra những mặt tồn tại, hạn chế, nhiên cứu xây dựng đội ngũ cán bộ công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau. + Đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở tỉnh Cà Mau hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo Luật Cán bộ, công chức 2008. - Qua khảo sát ở các xã ở nông thôn, đô thị ở tỉnh Cà Mau để đánh giá việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở Cà Mau từ khi tách tỉnh đến nay. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu xây dựng đội ngũ cn bộ, cơng chức cấp x ở tỉnh Cà Mau đến năm 2015. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán bộ, công chức chính quyền cơ sở nói riêng. Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Lịch sử - cụ thể, phân tích - tổng hợp; điều tra xã hội học, thống kê so sánh. 6. Đóng góp mới của luận văn - Luận văn chỉ ra được những kết quả, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân tồn tại, hạn chế của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở tỉnh Cà Mau sau khi tách tỉnh đến nay. - Đề xuất các giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã tỉnh Cà Mau đến năm 2015. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài - Về lý luận, đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở địa phương. - Về thực tiễn, luận văn là tài liệu tham khảo có giá trị cho việc định ra chủ trương, chính sách xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức ở tỉnh Cà Mau. 8. Kết cấu của đề tài Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CN BỘ, CƠNG CHỨC CẤP X 1.1. QUAN NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA CN BỘ, CƠNG CHỨC CẤP X 1.1.1. Quan niệm về cán bộ, công chức Trên thế giới có những quan niệm khác nhau về cán bộ, công chức. Ở Cộng hoà Pháp, công chức gồm những người được tuyển dụng và bổ nhiệm vào ngạch, làm việc ở các công sở trong cơ quan công quyền, tổ chức phục vụ sự nghiệp công do Chính phủ Trung ương thống nhất quản lý [44, tr.40]. Ở Inđônêxia, công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm làm việc trong các công sở hành chính từ trung ương đến địa phương, ngoài ra còn có sĩ quan cao cấp làm việc trong quân đội, những người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước. Ở Canada, công chức là những người được tuyển dụng làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước (không kể những người làm việc trong đơn vị hành chính sự nghiệp). Ở Việt Nam, cán bộ, công chức là khái niệm thường được dùng để gọi chung những người làm việc cho nhà nước, hoặc các tổ chức trong hệ thống chính trị. Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, năm 2006) cán bộ được định nghĩa là: "Người làm công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước, Đảng và đoàn thể có chức vụ. Như vậy, trong tổ chức đảng và đoàn thể, cán bộ được dùng để chỉ những người được bầu vào các chức vụ lnh đạo, làm công tác chuyên trách hưởng lương từ ngân sách nhà nước". "Công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước, hưởng lương do ngân sách nhà nước cấp". Như vậy, khái niệm công chức theo Từ điển Tiếng Việt không đề cập đến lực lượng làm việc trong cơ quan Đảng, tổ chức chính trị - x hội. Cc yu cầu phải "được tuyển dụng", "được bổ nhiệm" và "hưởng lương từ ngân sách nhà nước" không phải là điểm đặc trưng của riêng đối tượng công chức. Lực lượng cán bộ ở các cơ quan đảng cũng được bổ nhiệm và cũng hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Với khái niệm công chức như vậy, thì khơng thể phn biệt được cán bộ và công chức. Dẫn đến việc khó khăn cho các cấp có thẩm quyền trong việc hoạch định chính sách cụ thể đối với đối tượng cán bộ, công chức. Hiện nay, theo văn bản quy phạm pháp luật đang có hiệu lực pháp luật và có giá trị pháp lý cao nhất về địa vị pháp lý của cán bộ, công chức Việt Nam là Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 được sửa đổi bổ sung một số điều năm 2003 thì cn bộ, cơng chức được quy định chung tại Khoản 1, Điều 1 như sau: 1. Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm: a) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội ở Trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung l cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị x, thnh phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện); b) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; c) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; d) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội; đ) Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân; e) Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phịng; lm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp; g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị - x hội x, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp x); h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhn dn cấp x. Cán bộ, công chức theo pháp luật Việt Nam phải đảm bảo tối thiểu các điều kiện như phải là công dân Việt Nam, trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách hoặc các nguồn thu từ hoạt động sự nghiệp, đối với công chức ở các đơn vị sự nghiệp cịn gọi l vin chức. Php lệnh cn bộ, cơng chức khơng phn biệt r giữa cn bộ v cơng chức nhưng các Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 10 năm 2003 lại xác định công chức là những đối tượng sau: Điều 2. Đối tượng điều chỉnh Công chức nói tại Nghị định này là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước được quy định tại Điểm b, Điểm c, Điểm e Khoản 1 Điều 1 của Pháp lệnh Cán bộ, công chức, làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội sau đây: 1. Văn phịng Quốc hội; 2. Văn phịng Chủ tịch nước; 3. Các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; 4. Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân các cấp; 5. Cơ quan đại diện nước Cộng hoà x hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài; 6. Đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân; 7. Bộ my gip việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện. Ngoại trừ những đối tượng được xác định là viên chức ở Điểm d, Khoản 1, Điều 1 của Php lệnh Cn bộ, cơng chức thì những đối tượng cịn lại l cn bộ. Cn bộ cĩ những điểm khác biệt cơ bản so với công chức theo quy định của các văn bản trên như được bổ nhiệm và làm việc theo nhiệm kỳ, không phân biệt cơ quan họ công tác là cơ quan nhà nước hay các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội, cn bộ khơng nằm trong bin chế của bộ my nh nước. Xét về mặt nguyên tắc nếu họ (cán bộ) không được bầu cử ở các nhiệm kỳ tiếp theo thì họ sẽ khơng tiếp tục hoạt động trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - x hội. Luật về Cán bộ, công chức năm 2008, có hiệu lực thi hành vào ngày 1/1/2010 cũng có những quy định phân biệt r giữa cn bộ v cơng chức tại điều 4 như sau: 1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - x hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung l cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị x, thnh phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. 2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - x hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhn dn m khơng phải l sĩ quan, hạ sĩ quan chuyn nghiệp v trong bộ my lnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - x hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật. Như vậy, Luật Cán bộ, công chức là một sự kế thừa và phát triển những quy định trước đây về cán bộ, công chức. Khái niệm cán bộ, khái niệm công chức đ được luật hoá. Luật Cán bộ, công chức có hiệu lực sẽ là cơ sở pháp lý cơ bản để phân định r giữa cn bộ v cơng chức. Việc phn định r cn bộ, công chức sẽ tạo điều kiện thuận lợi để cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng các chính sách đối với cán bộ, công chức một cách phù hợp, phát huy được vai trị quan trọng của đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong hệ thống chính trị. 1.1.2. Quan niệm, đặc điểm cán bộ cấp x Sự nhận thức đối với quan niệm về cán bộ, công chức cấp x ở Việt Nam cũng nằm trong sự vận động chung của quan niệm về cán bộ, công chức Việt Nam qua từng thời điểm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật cụ thể như đ phn tích ở mục 1.1.1 của luận văn. Bên cạnh đó, quan niệm về cn bộ, cơng chức cấp x cĩ những đặc thù. Các quy định liên quan đến cán bộ, công chức x được điều chỉnh bởi các văn bản như Quyết định số 112/HĐBT ngày 15/10/1981 quy định về chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp x; Thơng tư 477/TCCP ngày 10/12/1981 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 112/HĐBT ngày 15/10/1981; Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 quy định về số lượng và chế độ chính sách của cán bộ công tác Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cấp x; Thơng tư 97/TTLB/TCCP-BTC ngày 16/8/1995 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995. Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 không quy định cụ thể về cán bộ, công chức cấp x m chỉ quy định chung về cán bộ, công chức. Trong các văn bản trên chỉ r những chức danh no l cn bộ cơng tc tại x được hưởng sinh hoạt phí chứ không nêu khái niệm về cán bộ và công chức cấp x. Trải qua một thời gian tương đối dài, lực lượng cán bộ, công chức cấp x chưa được quan tâm đúng mức. Năm 2003, Uỷ ban thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 mới quy định chung về cn bộ, cơng chức cấp x: Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm: g) Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị - x hội x, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp x); h) Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhn dn cấp x (Khoản 1, Điều 1, Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 2003). Mặc dù quy định trên cũng chưa phân định r quan niệm về cn bộ v cơng chức cấp x nhưng trên cơ sở tiêu chí chung để phân biệt giữa cán bộ và công chức và Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 về cán bộ, cơng chức cấp x thì chúng ta vẫn có thể xác định được những đối tượng là cán bộ, cơng chức cấp x. Cn bộ cấp x bao gồm cn bộ chuyn trch v khơng chuyn trch. Cn bộ chuyn trch gồm: 1. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (sau đây gọi chung là cán bộ chuyên trách cấp x), gồm cĩ cc chức vụ sau đây: a) Bí thư, Phó Bí thư đảng uỷ, Thường trực đảng uỷ (nơi không có Phó Bí thư chuyên trách công tác đảng), Bí thư, Phó Bí thư chi bộ (nơi chưa thành lập đảng uỷ cấp x); b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân; d) Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh. Cán bộ không chuyên trách gồm: a) Trưởng Ban Tổ chức đảng, Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo và 01 cán bộ Văn phịng Đảng uỷ; b) Phó Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); c) Phó Chỉ huy
Luận văn liên quan