Chúng ta đang ở kỉ nguyên mà động lực chủ yếu cho việc phát triển kinh tế -
xã hội là tri thức. Trong nền kinh tế tri thức của thế kỉ XXI này, nền giáo dục phải
đào tạo ra con người có trí tuệ phát triển, giàu tính sáng tạo và nhân văn. Để thực hiện
tốt nhiệm vụ này, nhà trường phổ thông phải trang bị cho học sinh (HS) hệ thống
những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại và phù hợp với tình hình thực tế của đất
nước.
Những năm qua chất lượng nắm vững kiến thức nói chung, kiến thức vật lí nói
riêng của HS phổ thông có những bước cải thiện đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước. Trước tình
hình đó, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho ngành giáo dục là phải đổi mới sâu sắc và toàn
diện nhà trường, trong đó đặc biệt quan tâm đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng: “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên” [26, tr.9]
117 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 5396 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng hệ thống bài tập chương “các định luật bảo toàn” lớp 10 THPT nhằm phát triển năng lực tư duy độc lập và nâng cao hiệu quả tự học của học sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN XUÂN PHƯƠNG
XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP
CHƯƠNG “CÁC ĐỊNH LUẬT BẢO TOÀN”
LỚP 10 PTTH NHẰM PHÁT TRIỂN NĂNG
LỰC TƯ DUY ĐỘC LẬP VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ TỰ HỌC CỦA HỌC SINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ VẬT LÝ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. PHẠM THẾ DÂN
Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chúng ta đang ở kỉ nguyên mà động lực chủ yếu cho việc phát triển kinh tế -
xã hội là tri thức. Trong nền kinh tế tri thức của thế kỉ XXI này, nền giáo dục phải
đào tạo ra con người có trí tuệ phát triển, giàu tính sáng tạo và nhân văn. Để thực hiện
tốt nhiệm vụ này, nhà trường phổ thông phải trang bị cho học sinh (HS) hệ thống
những kiến thức phổ thông, cơ bản, hiện đại và phù hợp với tình hình thực tế của đất
nước.
Những năm qua chất lượng nắm vững kiến thức nói chung, kiến thức vật lí nói
riêng của HS phổ thông có những bước cải thiện đáng kể, nhưng vẫn chưa đáp ứng
được yêu cầu của công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước. Trước tình
hình đó, nhiệm vụ cấp thiết đặt ra cho ngành giáo dục là phải đổi mới sâu sắc và toàn
diện nhà trường, trong đó đặc biệt quan tâm đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng: “phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi
dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên” [26, tr.9].
Trong quá trình dạy học vật lí, có nhiều phương pháp và biện pháp để nâng cao
chất lượng học tập, phát triển năng lực tư duy độc lập và nâng cao hiệu quả tự học
của HS. Trong số đó, giải bài tập vật lí (BTVL) có tác dụng rất tích cực đến việc giáo
dục và phát triển nhân cách của HS. Đồng thời, đây cũng là thước đo đích thực trong
việc nắm vững kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo vật lí của HS.
Khi nghiên cứu các vấn đề về BTVL, qua biên soạn giáo trình phương pháp
giảng dạy vật lí ở trường phổ thông, phương pháp giải BTVL sơ cấp, phương pháp
dạy BTVL. Các tác giả đã làm rõ tác dụng của BTVL trong dạy học, các cách phân
loại BTVL, soạn thảo hệ thống BTVL nhằm củng cố và vận dụng kiến thức đã học
của HS, đưa ra các phương pháp giải BTVL [8], [32], [35], Thêm vào đó, hệ thống
sách BTVL phổ thông đã giúp ích nhiều
cho giáo viên (GV) trong việc hướng dẫn HS giải BTVL.
Bên cạnh đó, quá trình dạy học tích cực hóa hoạt động học tập của HS đã quan
tâm rất nhiều đến hoạt động và vai trò của HS trong quá trình dạy học, đặc biệt trong
phần luyện tập đòi hỏi HS phải làm việc tự lực và tích cực. Bởi vậy, cần phải nghiên
cứu BTVL dựa trên sự phân tích hoạt động tư duy của HS, từ đó đề ra được cách
hướng dẫn HS tự lực giải BTVL bằng sự nỗ lực của chính bản thân mình một cách có
kết quả.
Mặt khác, hiện nay HS được tiếp xúc với nhiều kênh thông tin đa dạng và
phong phú như các tài liệu giải toán Vật lí, để học tốt vật lí, download những bài giải
sẵn trên mạng Internet,nên các em dễ ỉ lại, thiếu độc lập suy nghĩ, thiếu chọn lọc
thông tin để biến thành kiến thức của mình. Bên cạnh đó, số lượng bài tập trong sách
giáo khoa (SGK), sách bài tập, tài liệu tham khảo là rất nhiều. Đây là điều gây khó
khăn cho GV trong việc lựa chọn bài tập ra cho HS. Bởi vậy, rất cần có một sự lựa
chọn, phân loại, sắp sếp lại các bài tập theo một hệ thống tối ưu nhằm phát triển năng
lực tư duy độc lập và nâng cao hiệu quả tự học của HS. Đồng thời, vẫn đảm bảo phù
hợp với nội dung chương trình và thời gian dành cho HS trên lớp cũng như ở nhà.
Hơn nữa, HS lớp 10 là lớp đầu cấp trung học phổ thông (THPT) – cấp đòi hỏi
tính tích cực và tư duy độc lập cao hơn so với cấp trung học cơ sở, vì do yêu cầu về
tính chất và nội dung phức tạp của kiến thức. Đúng như nhà tâm lí học Varuchetcki
đã viết: “Khác biệt cơ bản là hoạt động của HS lớn đề ra những yêu cầu cao hơn đối
với tính tích cực và tính độc lập của các em” [45, tr.78]. Dù vậy, cho đến nay việc
xây dựng hệ thống BTVL nhằm phát triển năng lực tư duy độc lập và nâng cao hiệu
quả tự học của HS chưa được quan tâm đúng mức.
Bởi lẽ đó, việc lựa chọn đề tài: “xây dựng hệ thống bài tập chương “các định
luật bảo toàn” lớp 10 THPT nhằm phát triển năng lực tư duy độc lập và nâng cao hiệu
quả tự học của học sinh” là hết sức cần thiết.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Xây dựng hệ thống bài tập tối thiểu và đưa ra cách sử dụng nó trong quá trình
dạy học chương các định luật bảo toàn (CĐLBT) lớp 10 PTTH nhằm góp phần phát
triển năng lực tư duy độc lập và nâng cao hiệu quả tự học của HS.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Khách thể nghiên cứu là HS lớp 10 THPT ban KHTN trong quá trình học tập
chương CĐLBT.
- Đối tượng nghiên là hệ thống bài tập chương CĐLBT lớp 10 THPT ban
KHTN, hoạt động của HS trong quá trình giải BTVL và hoạt động của GV trong việc
hướng dẫn HS giải BTVL chương CĐLBT.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Trong quá trình dạy học chương CĐLBT lớp 10 THPT ban KHTN, nếu GV
lựa chọn được hệ thống bài tập thích hợp và thường xuyên quan tâm hướng dẫn HS
tự lực giải BTVL thì phát triển được năng lực tư duy độc lập và nâng cao hiệu quả tự
học của HS.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn về tư duy độc lập, về tự học của HS
trong quá trình giải BTVL, từ đó đề ra cách phân loại BTVL thích hợp và cách hướng
dẫn HS giải BTVL có hiệu quả.
- Xây dựng hệ thống bài tập chương CĐLBT giúp HS thông qua việc giải nó
mà rèn luyện được kĩ năng và kĩ xảo giải BTVL, phát triển năng lực tư duy độc lập và
nâng cao hiệu quả tự học.
- Đưa ra cách sử dụng hệ thống bài tập chương CĐLBT trong hai loại tiết học
phổ biến về vật lí: Nghiên cứu tài liệu mới và luyện tập giải bài tập.
- Thực nghiệm sư phạm nghiên cứu hiệu quả của hệ thống bài tập đã xây dựng,
cũng như việc sử dụng nó và việc hướng dẫn HS giải BTVL theo định hướng hành
động trong quá trình dạy học chương CĐLBT. Phân tích kết quả thực nghiệm sư
phạm để rút ra kết luận về khả năng sử dụng hệ thống bài tập đã đề xuất.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu cơ sở lí luận về BTVL, về tư duy độc lập, về tự học và hiệu quả
tự học của HS trong việc giải BTVL.
- Tìm hiểu thực tế việc tự học và giải BTVL của HS, việc sử dụng bài tập của
GV.
- Vận dụng lí luận và thực tiễn xây dựng hệ thống bài tập chương CĐLBT, nêu
ra cách sử dụng và cách hướng dẫn giải từng loại BTVL.
- Thực nghiệm sư phạm để nghiên cứu hiệu quả thực tế của hệ thống bài tập
chương CĐLBT lớp 10 THPT ban KHTN.
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
MỞ ĐẦU
Chương 1: Cơ sở lí luận về bài tập vật lí
Chương 2: Xây dựng và sử dụng hệ thống bài tập chương “Các định luật bảo toàn”
lớp 10 THPT ban KHTN nhằm phát triển năng lực tư duy độc lập và nâng cao hiệu
quả của HS
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ BÀI TẬP VẬT LÍ
1.1. Khái niệm về bài tập vật lí
Trong từ điển tiếng Việt, các thuật ngữ “bài tập” và “bài toán” được giải nghĩa
khác nhau: Bài tập là bài ra cho HS làm để tập vận dụng những kiến thức đã học, còn
bài toán là những vấn đề cần giải quyết bằng các phương pháp khoa học [42, tr.40-
41]. Cũng như thế, có một số ý kiến cho rằng cần phân biệt hai thuật ngữ “bài tập vật
lí” và “bài toán vật lí”. Bởi lẽ, bài tập vật lí là tập vận dụng đơn giản kiến thức lí
thuyết đã học vào những trường hợp cụ thể, bài toán vật lí được sử dụng để hình
thành kiến thức mới chưa có cách giải quyết suy ra được từ các kiến thức cũ, hoặc
trong khi giải quyết một vấn đề mới đưa ra chưa có câu trả lời. Bên cạnh đó, trong
một số giáo trình lí luận dạy học vật lí, các tác giả lại chỉ dùng hoặc thuật ngữ “bài
tập vật lí” hoặc thuật ngữ “bài toán vật lí” với cùng một cách hiểu: Giải bài tập vật lí
hay giải bài toán vật lí là tập vận dụng các khái niệm, quy tắc, định luật, thuyết vật
lí, đã học vào các vấn đề trong đời sống và lao động sản xuất [32], [36],.
Lí luận dạy học hiện đại đã chỉ ra rằng trong quá trình lĩnh hội kiến thức không
phải HS thụ động tiếp thu cách giải quyết vấn đề một cách máy móc mà chính họ
cũng tập cách giải quyết vấn đề để chiếm lĩnh kiến thức mới. Lúc đó, HS không chỉ
đơn thuần tập vận dụng kiến thức cũ mà còn tập tìm kiếm kiến thức mới. Nhiều GV
đã sử dụng bài tập với mục đích chủ yếu để rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức cũ
mà xem nhẹ kĩ năng tìm kiếm kiến thức mới, vì họ cho rằng bài tập chỉ đơn thuần hay
nặng về vận dụng kiến thức đã biết.
Trong giáo trình lí luận dạy học vật lí và SGK vật lí, chúng ta hiểu những bài
tập là những bài luyện tập được lựa chọn một cách phù hợp với mục đích chủ yếu là
nghiên cứu các hiện tượng vật lí, hình thành các khái niệm vật lí, phát triển năng lực
tư duy vật lí của HS và rèn luyện kĩ năng vận dụng các kiến thức của HS vào thực
tiễn.
Từ những điều đã đề cập ở trên, cả hai ý nghĩa khác nhau là vận dụng kiến thức
cũ và tìm kiếm kiến thức mới đều có mặt trong khái niệm về bài tập vật lí. Bởi lẽ đó,
chúng ta không nên phân biệt bài tập vật lí và bài toán vật lí mà gọi chung là bài tập
vật lí.
1.2. Tác dụng của bài tập vật lí
Nét đặc trưng tiêu biểu của phương pháp dạy học hiện đại là tôn trọng vai trò
chủ đạo của người học, kích thích tính độc lập sáng tạo, trau dồi khả năng tự học của
mỗi người. Theo phương pháp này, HS là chủ thể của nhận thức, không thụ động tiếp
thu kiến thức bằng cách nghe thầy giảng mà học tích cực bằng hành động của chính
mình; GV không phải là người duy nhất để dạy, cung cấp kiến thức mà chỉ đóng vai
trò tổ chức, định hướng quá trình học tập nhằm phát huy vai trò chủ động trong học
tập của HS. Bởi vậy, cần phải giúp HS nắm được phương pháp chiếm lĩnh kiến thức,
phương pháp hoạt động học tập và bồi dưỡng cho họ từ việc xây dựng kiến thức đến
việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Giải BTVL là một trong những hình thức luyện tập chủ yếu và tiến hành nhiều
nhất. Các BTVL có tác dụng rất lớn trong việc hình thành, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo
vận dụng và tìm tòi kiến thức cho HS. Bởi lẽ đó, “Trong quá trình dạy học vật lí các
bài tập vật lí có tầm quan trọng đặc biệt. Chúng được sử dụng theo những mục đích
khác nhau” [35, tr.7].
1.2.1. Ôn tập, đào sâu và mở rộng kiến thức
Bài tập vật li là một phương tiện củng cố, ôn tập kiến thức sinh động và có hiệu
quả. Khi giải BTVL, HS phải nhớ lại các kiến thức đã học, có khi phải sử dụng tổng
hợp các kiến thức thuộc nhiều chương, nhiều phần của chương trình; HS phải vận
dụng những kiến thức khái quát và trừu tượng đã học vào những trường hợp cụ thể
rất đa dạng, nhờ đó mà họ nắm được những biểu hiện cụ thể của chúng trong thực tế,
phát hiện ngày càng nhiều những hiện tượng thuộc ngoại diên của các khái niệm hoặc
chịu sự chi phối của các định luật hay thuộc phạm vi ứng dụng của chúng. Quá trình
nhận thức các khái niệm, định luật vật lí không kết thúc ở việc xây dựng nội hàm của
các khái niệm, định luật vật lí mà còn tiếp tục ở giai đoạn vận dụng vào thực tế.
1.2.2. Hình thành kiến thức mới
Nhiều khi các BTVL được sử dụng khéo léo có thể dẫn dắt HS đi đến những
suy nghĩ về một hiện tượng mới hoặc xây dựng một khái niệm mới để giải thích hiện
tượng mới do bài tập phát hiện ra.
1.2.3. Hình thành và rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo vận dụng kiến thức vào thực tiễn
Bài tập vật li là một trong những phương tiện rất quí báu giúp HS rèn luyện kĩ
năng, kĩ xảo vận dụng lí thuyết vào thực tiễn; rèn luyện thói quen vận dụng kiến thức
khái quát đã thu nhận được để giải quyết các vấn đề của thực tiễn. Có thể xây dựng
rất nhiều bài tập có nội dung thực tiễn, trong đó yêu cầu HS phải vận dụng kiến thức
lí thuyết để giải thích các hiện tượng hoặc dự đoán hiện tượng có thể xảy ra trong
thực tiễn ở những điều kiện cho trước.
1.2.4. Một trong những hình thức làm việc tự lực cao
Trong khi giải BTVL, HS phải tự mình phân tích các điều kiện của bài tập đặt
ra, xây dựng những lập luận, kiểm tra và phê phán những kết luận rút ra được nên tư
duy của họ được phát triển, năng lực làm việc tự lực của họ được nâng cao.
1.2.5. Phát triển tư duy vật lí
Tư duy vật lí là khả năng quan sát hiện tượng vật lí, phân tích một hiện tượng
phức tạp thành những hiện tượng thành phần, thiết lập các mối liên hệ giữa các mặt
định tính và định lượng của các hiện tượng và các đại lượng vật lí, đoán trước các hệ
quả từ lí thuyết và vận dụng được kiến thức. Hầu hết các hiện tượng nêu lên trong
BTVL là phức tạp, trừ một số bài tập đơn giản chỉ đề cập đến một hiện tượng vật lí.
Muốn giải được chúng cần phải phân tích hiện tượng phức tạp ấy thành các hiện
tượng thành phần, nghĩa là cần phải phân tích một BTVL phức tạp thành các bài tập
đơn giản. Trong quá trình đó HS phải vận dụng các thao tác tư duy để giải bài tập,
nhờ đó mà tư duy được phát triển và năng lực làm việc tự lực được nâng cao.
1.2.6. Kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức
Tùy theo cách đặt câu hỏi kiểm tra, ta có thể phân loại được các mức độ nắm
vững kiến thức của HS, làm cho việc đánh giá chất lượng kiến thức của HS được
chính xác. Bởi vậy, BTVL là phương tiện rất hữu hiệu để kiểm tra mức độ nắm vững
kiến thức của HS.
1.3. Phân loại bài tập vật lí
1.3.1. Phân loại bài tập vật li dựa vào phương thức giải
Các tác giả đã chỉ ra rằng dựa vào phương thức giải, ta có thể chia BTVL thành
bài tập định tính, bài tập tính toán, bài tập thí nghiệm và bài tập đồ thị [32, tr.340-
346].
1.3.1.1. Bài tập định tính
Bài tập định tính là những bài tập mà khi giải không đòi hỏi HS phải tính toán.
Các bài tập này thường được giải bằng những suy luận logic dựa trên các định luật
vật lí.
Việc giải các bài tập định tính có tác dụng kích thích sự hứng thú với môn học
và phát triển óc quan sát của HS; là phương tiện rất hữu hiệu để phát triển tư duy của
HS; rèn luyện cho HS hiểu rõ được bản chất của các hiện tượng vật lí và những quy
luật của chúng, biết áp dụng kiến thức vào thực tiễn và biết phân tích nội dung vật lí
của các bài tập tính toán. Bởi vậy, bài tập định tính được sử dụng ưu tiên hàng đầu
sau khi học xong lí thuyết, trong khi luyện tập và ôn tập.
1.3.1.2. Bài tập tính toán
Bài tập tính toán là những bài tập mà khi giải đòi hỏi HS phải thực hiện
một chuỗi các phép tính và kết quả thu được một đáp số định lượng. Bài tập toán có
thể chia làm hai loại: Bài tập tính toán tập dượt và tính toán tổng hợp.
1) Bài tập tính toán tập dượt là những bài tập cơ bản, đơn giản, trong đó chỉ đề
cập đến một hiện tượng, một định luật và sử dụng một vài phép tính đơn giản. Các
bài tập này có tác dụng củng cố các kiến thức cơ bản vừa học, làm cho HS hiểu rõ ý
nghĩa của các định luật và các công thức biểu diễn chúng.
2) Bài tập tính toán tổng hợp là những bài tập mà khi giải đòi hỏi HS phải vận
dụng nhiều khái niệm, định luật, dùng nhiều công thức. Các bài tập này có tác dụng
giúp HS đào sâu, mở rộng kiến thức; thấy rõ mối liên hệ khác nhau giữa các phần của
chương trình vật lí; biết phân tích những hiện tượng vật lí phức tạp thành những phần
đơn giản tuân theo một định luật xác định.
1.3.1.3. Bài tập thí nghiệm
Bài tập thí nghiệm là những bài tập đòi hỏi HS phải làm thí nghiệm để kiểm
chứng lời giải lí thuyết hoặc để tìm những số liệu cần thiết cho việc giải bài tập. Các
bài tập thí nghiệm này là những bài tập đơn giản, với những dụng cụ đơn giản, HS có
thể tự mình thực hiện ở nhà hoặc phòng thí nghiệm của trường.
Bài tập thí nghiệm có tác dụng tốt về cả ba mặt giáo dưỡng, giáo dục và kĩ
thuật tổng hợp, đặc biệt là giúp làm sáng tỏ mối quan hệ giữa lí thuyết và thực tiễn.
1.3.1.4. Bài tập đồ thị
Bài tập đồ thị là những bài tập trong đó các số liệu được dùng làm dữ kiện để
giải được tìm trong các đồ thị cho trước hoặc ngược lại, đòi hỏi HS phải biểu diễn
quá trình diễn biến của hiện tượng nêu trong bài tập đồ thị.
Bài tập đồ thị có tác dụng giúp biểu đạt mối quan hệ giữa hai đại lượng vật lí,
có thể tìm được định luật vật lí mới nhờ vẽ chính xác đồ thị biểu diễn các số liệu thực
nghiệm.
1.3.2. Phân loại bài tập vật lí dựa vào hoạt động tư duy của học sinh trong quá
trình tìm kiếm lời giải
Sự đa dạng và phong phú của BTVL được thể hiện ở chỗ: Trong bất kì
bài tập nào cũng chứa đựng một vài yếu tố của một hay nhiều loại khác. Trong khi
đó, có nhiều cách phân loại bài tập chỉ mang tính chất bên ngoài, chưa quan tâm đến
HS là chủ thể giải bài tập và hoạt động tự lực của họ trong
quá trình tìm kiếm lời giải BTVL.
1.3.2.1. Hoạt động của học sinh trong quá trình tìm kiếm lời giải bài tập vật lí
Theo khái niệm ở mục 1.1, BTVL có hai chức năng chủ yếu là: Vận dụng kiến
thức đã học và tìm kiếm kiến thức mới.
1) Hoạt động tư duy của HS trong quá trình giải bài tập nhằm vận dụng kiến
thức đã học trải qua các giai đoạn chủ yếu sau đây:
- Đọc kĩ đầu bài, xác định rõ đâu là cái đã cho và cái phải tìm, tóm tắt đầu bài
bằng những kí hiệu quen thuộc.
- Nhận biết hiện tượng có mặt trong bài tập thuộc kiến thức nào đã học.
- Xác định các mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm biểu hiện ở các định
nghĩa, quy tắc, định luật, thuyết vật lí, đã biết.
- Đề xuất cách thức đi từ các mối quan hệ đó đến kết quả cần tìm.
- Thực hiện các hành động như lập luận logic, biến đổi toán học, đọc đồ thị,
để thiết lập mối quan hệ tường minh giữa cái phải tìm và cái đã cho.
- Trình bày lời giải theo một trật tự tối ưu.
2) Hoạt động của HS khi giải bài tập nhằm hình thành kiến thức mới:
Bài tập hình thành kiến thức mới là những bài tập mà sau khi giải nó, HS thu
được tính chất, quy tắc, định luật mới mà họ chưa biết và chúng có mối quan hệ với
các tính chất, quy tắc, định luật đã biết. Điều chưa biết có thể không tìm được bằng
lập luận logic, bằng tính toán mà phải tìm ở chính thiên nhiên. Tuy nhiên, những điều
quan sát trong thiên nhiên lắm lúc không trả lời trực tiếp câu hỏi nghiên cứu mà phải
thực hiện chuỗi lập luận trung gian từ những điều quan sát dược.
Khi nghiên cứu các tính chất, quy tắc, định luật vật lí cần phải áp dụng các
phương pháp nhận thức khoa học, phương pháp nghiên cứu vật lí như thực nghiệm,
tương tự, mô hình,[30, tr.62-80; 39, tr.33-34]. Cho dù áp dụng phương pháp nào đi
nữa thì trong quá trình nghiên cứu của HS đều chứa đựng hai hoạt động sau:
- Từ những tính chất, quan hệ bên trong đã biết của sự vật, hiện tượng suy ra
những biểu hiện bên ngoài có thể quan sát, đo lường được trong thiên nhiên bằng suy
luận logic hay biến đổi toán học (suy luận chủ yếu thuộc loại diễn dịch). Ngược lại,
từ những điều quan sát được suy ra những tính chất, mối quan hệ bên trong của sự
vật, hiện tượng (suy luận chủ yếu thuộc loại quy nạp).
- Quan sát, đo lường để thu thập tư liệu, tìm tòi giải đáp ở thiên nhiên. Từ
những điều quan sát, HS phải xác định được mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng
và bản chất của nó, tức là phải dùng phép quy nạp khoa học.
Mục đích của bài tập hình thành kiến thức mới là HS lĩnh hội được kinh
nghiệm mà loài người đã biết và những vấn đề mà các nhà khoa học đã giải quyết.
Bản chất của việc hình thành kiến thức mới bằng bài tập là phải tạo ra tình huống bắt
buộc HS độc lập tìm cách giải quyết. Những tình huống này được tạo ra nhờ xây
dựng một hệ thống bài tập làm cho HS thấy được sự vướng mắc nào đó về lí thuyết
hay thực tiễn, hiểu rõ vấn đề do GV đưa ra hay diễn đạt được vấn đề đó, mong muốn
giải quyết vấn đề và có khả năng giải quyết được vấn đề ấy.
1.3.2.2. Phân loại bài tập vật lí dựa vào hoạt động tư duy của học học sinh trong
quá trình tìm kiếm lời giải
Hoạt động tư duy của HS trong quá trình tìm kiếm lời giải BTVL vận dụng
kiến thức đã biết và tìm kiếm kiến thức mới gồm ba giai đoạn: Định hướng hoạt động
giải, thực hiện các hành động, kiểm tra và đánh giá quá trình thực hiện các hành động
theo định hướng ban đầu.
Nội dung chính của giai đoạn định hướng là xác định rõ mục đích giải bài tập,
tiên lượng các mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm, vạch ra cách thức và trình
tự các bước giải quyết