Mười lăm năm qua, nhất là những năm gần đây, ngành bảo hiểm đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển của hệ thống tài chính nói riêng và tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung. Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một kênh quan trọng trên thị trường vốn, thể hiện tất cả các vai trò trên thị trường tài chính. Đó là đảm bảo sự ổn định thông qua việc tập trung và phân tán rủi ro, tăng cường ổn định tài chính trong hộ gia đình và doanh nghiệp, huy động vốn dài hạn và đầu tư dài hạn… Vì vậy phát triển ngành bảo hiểm tương ứng với mức độ phát triển của nền kinh tế là một nhu cầu khách quan. Do đặc thù của ngành, các doanh nghiệp bảo hiểm bao giờ cũng tiến hành đồng thời hai hoạt động đó là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư. Nếu như hoạt động kinh doanh bảo hiểm của ngành thời gian qua có tốc độ phát triển khá nhanh thì tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm còn mờ nhạt chưa thể hiện tính chuyên nghiệp. Một trong những nguyên nhân của thực trạng này là vấn đề quản lý danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm còn hạn chế. Vì vậy, đề tài “Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư hiệu quả tại các công ty bảo hiểm Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng, xác định nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam.
109 trang |
Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2811 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư hiệu quả tại các công ty bảo hiểm Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU: GIỚI THIỆU
1. Tính cấp thiết và mục tiêu nghiên cứu của đề tài:
Mười lăm năm qua, nhất là những năm gần đây, ngành bảo hiểm đã có những đóng góp nhất định vào sự phát triển của hệ thống tài chính nói riêng và tăng trưởng kinh tế Việt Nam nói chung. Thị trường bảo hiểm Việt Nam là một kênh quan trọng trên thị trường vốn, thể hiện tất cả các vai trò trên thị trường tài chính. Đó là đảm bảo sự ổn định thông qua việc tập trung và phân tán rủi ro, tăng cường ổn định tài chính trong hộ gia đình và doanh nghiệp, huy động vốn dài hạn và đầu tư dài hạn… Vì vậy phát triển ngành bảo hiểm tương ứng với mức độ phát triển của nền kinh tế là một nhu cầu khách quan. Do đặc thù của ngành, các doanh nghiệp bảo hiểm bao giờ cũng tiến hành đồng thời hai hoạt động đó là kinh doanh bảo hiểm và đầu tư. Nếu như hoạt động kinh doanh bảo hiểm của ngành thời gian qua có tốc độ phát triển khá nhanh thì tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm còn mờ nhạt chưa thể hiện tính chuyên nghiệp. Một trong những nguyên nhân của thực trạng này là vấn đề quản lý danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm còn hạn chế. Vì vậy, đề tài “Xây dựng và quản lý danh mục đầu tư hiệu quả tại các công ty bảo hiểm Việt Nam” được lựa chọn nghiên cứu nhằm phân tích thực trạng, xác định nguyên nhân và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động đầu tư và quản lý danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm thương mại đang hoạt động trên thị trường tài chính: Bao gồm các công ty bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ, không đi vào phân tích hoạt động đầu tư của các công ty môi giới bảo hiểm cũng như các tổ chức bảo hiểm khác như bảo hiểm xã hội…
Thời gian được chọn nghiên cứu là 2004-2008.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn bắt đầu bằng các lý luận được tổng kết từ kinh nghiệm của của các nước trên thế giới và Việt Nam, đặc biệt là các lý thuyết hiện đại về quản lý danh mục đầu tư.
Khi nghiên cứu luận văn, phương pháp nghiên cứu diễn dịch - quy nạp kết hợp giữa các dữ liệu sơ cấp và dữ liệu thứ cấp được vận dụng để đánh giá thực trạng hoạt động đầu tư và quản lý danh mục đầu tư của của các công ty bảo hiểm Việt Nam và so sánh với các công ty bảo hiểm tại các nước phát triển khác.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, tức đưa ra định hướng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý danh mục đầu tư tại các công ty bảo hiểm Việt Nam trên cơ sở đã phân tích thực trạng và những nguyên nhân tồn tại.
4. Dữ liệu nghiên cứu:
Để minh hoạ, luận văn sử dụng số liệu được công bố chính thức từ cơ quan Chính phủ như Vụ bảo hiểm - Bộ Tài chính, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, các hãng tin uy tín trên thế giới như Reuters, BMI (Business Monitor International), SSRN (Social Science Research Network), … các tư liệu từ sách, báo, tạp chí chuyên ngành.
5. Nội dung luận văn:
Nội dung của luận văn thể hiện trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về đầu tư và quản lý danh mục đầu tư bảo hiểm
Chương 2: Thực trạng về hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2004-2008
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý danh mục đầu tư tại các công ty bảo hiểm Việt Nam
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ
VÀ QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ BẢO HIỂM
1.1. Cơ sở lý luận về đầu tư:
1.1.1. Khái quát về đầu tư:
Đầu tư là hành động hy sinh một giá trị chắc chắn ở hiện tại để thu lại một giá trị khác lớn hơn nhưng mang tính không chắc chắn ở tương lai.
Hoạt động đầu tư luôn gắn liền với hai yếu tố là lợi nhuận và rủi ro. Lợi nhuận là thu nhập có được từ một khoản đầu tư, thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm giữa thu nhập và giá trị khoản đầu tư bỏ ra. Rủi ro được định nghĩa là sự sai biệt của lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng. Có một nguyên tắc trong hoạt động đầu tư là có sự đánh đổi giữa rủi ro và lợi nhuận. Nếu khả năng sinh lời từ hoạt động đầu tư càng lớn thì mức độ rủi ro sẽ càng cao và ngược lại.
Có thể tạm chia hoạt động đầu tư làm 2 mảng lớn:
( Đầu tư thực: Họat động đầu tư vào các tài sản thực như đất đai, nhà xưởng, máy móc thiết bị.
( Đầu tư tài chính: Hoạt động đầu tư vào các tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ tài chính khác. Nhà đầu tư tài chính thông thường chỉ nhắm vào mục đích mua bán chứ ít làm tăng giá trị thực của công ty mà họ đầu tư vào.
Trong nền kinh tế, hai hoạt động này quan hệ và hỗ trợ nhau cùng phát triển.
1.1.2. Các nhân tố tác động đến quyết định đầu tư:
( Lợi nhuận có thể đạt được từ hoạt động đầu tư: Đây chính là mục tiêu của nhà đầu tư. Vì vậy, nhà đầu tư sẽ đưa ra quyết định đầu tư nếu hoạt động đầu tư này mang lại lợi nhuận càng nhiều càng tốt. Để đo lường lợi nhuận (hoặc có thể sử dụng thuật ngữ tỷ suất sinh lợi) từ hoạt động đầu tư, có một số các chỉ tiêu được biết đến như NPV, IRR, PI, ROE, ROA, EPS... Tuy nhiên cần cân nhắc với nhân tố đi liền với lợi nhuận là rủi ro.
( Rủi ro: Là sự dao động của lợi nhuận từ hoạt động đầu tư làm cho lợi nhuận đạt được không như dự kiến. Lợi nhuận dao động càng lớn, rủi ro càng cao. Có một thực tế là nhà đầu tư có tính ưa thích lợi nhuận và có tính không ưa thích rủi ro. Lợi nhuận và rủi ro là hai thuộc tính không thể tách rời của bất kỳ một tài sản đầu tư nào. Từ đó lợi nhuận và rủi ro cấu thành nên các công thức xác định giá cả của một tài sản đầu tư. Nội dung của rủi ro sẽ được đề cập chi tiết hơn trong mục tiếp theo:
( Chính sách khuyến khích đầu tư của Chính phủ: Hoạt động đầu tư của các tổ chức cá nhân là động lực phát triển kinh tế. Vì vậy, để phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế vùng hay địa phương nói riêng, tùy thuộc vào từng giai đoạn, Chính phủ sẽ đưa ra những chính sách ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư vào vùng hay địa phương đó. Đổi lại, nhà đầu tư sẽ được hưởng những ưu đãi miễn giảm chi phí sử dụng đất, thuế thu nhập…
( Nhu cầu của thị trường hay thị hiếu của người tiêu dùng: Hoạt động đầu tư, đặc biệt là đầu tư thực là nhằm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Vì vậy, trước khi đưa ra quyết định đầu tư, nhà đầu tư cần tiến hành những nghiên cứu nghiêm túc, khảo sát thị trường với chi phí không phải nhỏ. Điều này là rất cần thiết để qua đó nhà đầu tư biết được nhu cầu hiện tại và những xu hướng tiêu dùng trong tương lai để đáp ứng tốt hơn các nhu cầu này. Có đáp ứng được nhu cầu của thị trường thì nhà đầu tư mới đạt được mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của mình.
1.1.3. Tỷ suất sinh lợi và rủi ro trong hoạt động đầu tư:
( Tỷ suất sinh lợi:
Tỷ suất sinh lợi của một tài sản đầu tư là tổng các khoản thu nhập hoặc lỗ của nhà đầu tư trong một thời kỳ. Nếu ký hiệu:
Po : Giá tài sản đầu tư ở kỳ 0
Pt : Giá tài sản đầu tư ở kỳ t
Ct : Lượng tiền mặt nhận được của tài sản đầu tư từ kỳ to đến tt
r : Tỷ suất sinh lợi trong suốt kỳ t
( Rủi ro trong hoạt động dầu tư:
Như đã đề cập ở phần trên, sự dao động của lợi nhuận hay tỷ suất sinh lời của các tài sản đầu tư là yếu tố gây ra rủi ro khi tiến hành các hoạt động đầu tư. Rủi ro trong hoạt động đầu tư có thể chia ra làm:
( Rủi ro hệ thống: Ảnh hưởng đến giá của tất cả chứng khoán. Những thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội... là những yếu tố gây ra rủi ro hệ thống. Rủi ro hệ thống có thể chia ra làm ba loại:
- Rủi ro thị trường: Đây là rủi ro hệ thống chỉ xảy ra với cổ phiếu. Rủi ro thị trường chính là sự dao động của giá cổ phiếu, sự thay đổi của lãi suất đầu tư đối với nhiều loại cổ phiếu trong một thời gian ngắn mặc đù thu nhập của công ty vẫn không thay đổi. Rủi ro thị trường xuất hiện do những phản ứng của nhà đầu tư đối với các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội mà chủ yếu là do yếu tố tâm lý của thị trường tạo nên phản ứng dây chuyền làm giá cả chứng khoán dao động mạnh gây ra rủi ro.
- Rủi ro lãi suất: Sự dao động trong mức lãi suất chung tạo ra sự dao động trong giá thị trường và thu thập trong tương lai của chứng khoán, đó là rủi ro lãi suất. Nguyên nhân chính của rủi ro này là do sự thay đổi của lãi suất trái phiếu chính phủ, dẫn đến sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của những chứng khoán khác (cổ phiếu, trái phiếu công ty). Nói cách khác, Chính phủ vay vốn đối với chứng khoán không rủi ro, chứng khoán chính phủ thay đổi dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn của các chứng khoán có rủi ro.
- Rủi ro sức mua: Rủi ro sức mua liên quan đến giá trị của đồng tiền, sức mua của đồng tiền thu được từ hoạt động đầu tư. Rủi ro sức mua chính là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư. Để bù đắp rủi ro sức mua, nhà đầu tư phải tính cả lạm phát vào thu nhập kỳ vọng.
( Rủi ro không hệ thống: Do các yếu tố như khả năng quản lý, mức độ sử dụng đòn bẩy tài chính và đòn bẩy kinh doanh hay những yếu tố khác gắn với những biến đổi trong nội tại của công ty gây ra.
Rủi ro hệ thống là rủi ro của nền kinh tế vĩ mô, với loại rủi ro này chỉ có thể phòng tránh phần nào bằng những dự đoán hợp lý. Rủi ro không hệ thống có thể phòng tránh bằng sự đa dạng hoá đầu tư (hình 1.1). Có thể hiểu tác dụng của đa dạng hoá một cách trực quan: Đa dạng hóa có thể làm giảm thiểu đáng kể các rủi ro riêng của doanh nghiệp. Nguyên nhân là do nguồn rủi ro của các doanh nghiệp khác nhau sẽ độc lập với nhau. Do đó các rủi ro sẽ không đồng thời xảy ra.
1.1.4. Đo lường rủi ro của từng tài sản đầu tư:
( Đo lường rủi ro không hệ thống:
Một trong những chỉ tiêu thống kê để đo lường sự dao động hay đo lường rủi ro không hệ thống của một tài sản đầu tư là phương sai và độ lệch chuẩn. Phương sai được định nghĩa như là bình phương khoảng cách chênh lệch giữa tỷ suất sinh lợi thực tế và tỷ suất sinh lợi mong đợi của nhà đầu tư. Độ lệch chuẩn đơn giản chỉ là căn bậc hai của phương sai. Độ lệch chuẩn thường được ký hiệu là σ và phương sai ký hiệu là σ2. Công thức tổng quát tính độ lệch chuẩn như sau:
Trong đó:
: Là tỷ suất sinh lợi trong trường hợp thứ i
: Là tỷ suất sinh lợi mong đợi, với được xác định như sau:
hoặc
Độ lệch chuẩn về tỷ suất sinh lợi của tài sản đầu tư càng lớn thì rủi ro của tài sản đầu tư đó càng cao.
( Đo lường rủi ro hệ thống (rủi ro thị trường):
Để đo lường sự thay đổi của tỷ suất sinh lợi từng tài sản đầu tư đối với sự thay đổi của thị trường, một chỉ tiêu thống kê được sử đụng là hệ số beta (β), được tính toán qua công thức sau:
Trong đó:
: Là hiệp phương sai giữa tỷ suất sinh lợi của tài sản thứ i và tỷ suất sinh lợi thị trường.
Các tài sản đầu tư có beta lớn hơn 1 có khuynh hướng khuếch đại các thay đổi tổng thể của thị trường. Nếu beta nằm giữa 0 và 1, thì tỷ suất sinh lợi của tài sản đầu tư này có khuynh hướng di chuyển cùng hướng với tỷ suất sinh lợi của thị trường nhưng không lệch nhiều lắm.
1.1.5. Mối quan hệ giữa rủi ro và tỷ suất sinh lợi (mô hình CAPM):
Tỷ suất sinh lợi của một tài sản có mối tương quan xác định với rủi ro của tài sản đó. Nghĩa là nhà đầu tư nắm giữ một tài sản có rủi ro chỉ khi tỷ suất sinh lợi của tài sản này bù đắp đủ phần rủi ro được thể hiện qua công thức sau:
Trong đó:
: Tỷ suất sinh lợi thị trường
: Tỷ suất sinh lợi phi rủi ro
r : Tỷ suất sinh lợi tài sản đầu tư
β : Hệ số bêta của tài sản đầu tư
Công thức này được gọi là mô hình định giá tài sản vốn (CAPM). Do tỷ suất sinh lợi trung bình trên thị trường cao hơn lãi suất phi rủi ro tình trung bình trong một thời kì dài nên xem như dương (>0) vì vậy, công thức trên ngụ ý rằng tỷ suất sinh lợi của một tài sản đầu tư có mối tương quan xác định với bêta của tài sản đầu tư đó.
1.2. Cơ sở lý luận về quản lý danh mục đầu tư:
1.2.1. Khái quát về danh mục đầu tư:
Danh mục đầu tư là tập hợp các tài sán thực và tài sản tài chính được nắm giữ bởi một nhà đầu tư.
Để đơn giản, từ đây chúng ta quy ước gọi một danh mục đầu tư là tập hợp các chứng khoán, mặc dù danh mục có thể bao gồm các tài sản thực, cổ phiếu, trái phiếu và cả các hợp đồng quyền chọn, các chứng từ có giá khác...
Khi xây dựng một danh mục đầu tư, nhà đầu tư phải thực hiện hai loại quyết định: Quyết định phân bổ tài sản đầu tư là sự chọn lựa phân bổ vốn vào các loại tài sản tổng quát và quyết định chọn lọc chứng khoán cụ thể là sự chọn lựa loại chứng khoán cá biệt sẽ được đầu tư trong số các tài sản đã chọn.
Danh mục khả thi: Là danh mục các chứng khoán mà một nhà đầu tư có thể nắm giữ thông qua hoạt động đầu tư mua bán chứng khoán.
Danh mục đầu tư hiệu quả: Là một danh mục khả thi mà khi nắm giữ nó, nhà đầu tư đạt được:
( Hoặc là lãi suất kỳ vọng cao nhất với cùng một mức độ rủi ro so với các danh mục đầu tư khác.
( Hoặc là có cùng lãi suất kỳ vọng với độ rủi ro nhỏ nhất.
1.2.2. Quy trình quản lý danh mục đầu tư:
Nhìn chung, một quy trình quản lý danh mục đầu tư sẽ đi theo các bước cụ thể như sau:
( Lựa chọn các tài sản đầu tư đưa vào danh mục.
( Xác định mức phân bổ vốn đầu tư vào từng tài sản.
( Xác định hiệu quả (mức sinh lợi) và mức độ rủi ro của danh mục từ các tài sản và tỷ trọng vốn vào từng tài sản đã được lựa chọn.
( Điều chỉnh danh mục khi có những tác động bất lợi của thị trường.
1.2.3. Các chiến lược quản lý danh mục đầu tư:
Các chiến lược quản lý có thể kể đến gồm có hai dạng chính: Quản lý thụ động và quán lý chủ động.
( Quản lý thụ động: Gắn với việc mua và giữ chứng khoán trong một thời gian dài. Chỉ điều chỉnh chút ít và hạn hữu trong suốt thời gian nắm giữ nó. Việc quản lý danh mục đầu tư theo chiến lược thụ động phù hợp với hai điều kiện cần thỏa mãn của thị trường chứng khoán là: Thị trường hiệu quả và tính đồng nhất của các dự tính. Nếu thị trường chứng khoán hiệu quả thì các chứng khoán sẽ luôn được định giá một cách hợp lý. Sẽ không có các chứng khoán bị đánh giá sai và vì vậy không có động lực kích thích hình thức buôn bán chứng khoán chủ động. Mặt khác, nếu trong thị trường chứng khoán, tất cả các nhà đầu tư đều có các dự tính thống nhất về tỷ lệ rủi ro và thu nhập chứng khoán, dẫn đến việc nhất trí quan điểm về danh mục vốn đầu tư thị trường, về đường thị trường vốn, thị trường chứng khoán, thì lại một lần nữa không khuyến khích hình thức buôn bán chứng khoán chủ động. Và đầu tư kiểu này còn được gọi là đầu tư chứng khoán dài hạn.
( Quản lý chủ động: Gắn liền với những điều chỉnh thường xuyên và đôi khi là cơ bản đối với danh mục đầu tư. Những nhà đầu tư quản lý theo kiểu chủ động tin rằng không thể tồn tại một danh mục đầu tư hiệu quả mãi và thị trường chứng khoán cũng vậy. Các chứng khoán trên thị trường có thể bị đánh giá sai. Khi đó, việc mua vào các chứng khoán này sẽ tạo cho họ một lợi nhuận siêu ngạch. Nói cách khác, người quản lý chủ động có những dự tính không đồng nhất về thu nhập và rủi ro của các chứng khoán. Họ tin rằng với biến động của thị trường, luôn luôn có những chứng khoán tốt hơn chứng khoán mà họ đang giữ bởi họ có cách xác định tốt hơn những người khác về thu nhập và rủi ro của các chứng khoán trong thực tế. Việc sử dụng cách xác định tốt hơn để tạo ra lợi nhuận siêu ngạch cho mình gọi là kiểu đầu tư thiên về ngắn hạn (hay còn gọi là đầu cơ).
Như chúng ta đã biết, sự đa dạng hóa danh mục đầu tư sẽ giảm thiểu được rủi ro. Vì vậy, nếu một người xây dựng một danh mục đầu tư có quá nhiều chứng khoán sẽ làm cho anh ta cảm thấy rất khó khăn trong việc quản lý nó ngay cả đối với một danh mục bị động. Người ta phải chia danh mục tổng thể ra theo các loại tài sản thông thường như cổ phiếu, trái phiếu và sẽ được quản lý riêng theo mức độ thích hợp với các chiến lược của từng loại. Mỗi danh mục nhỏ chỉ bao gồm trái phiếu chẳng hạn có thể được quản lý chủ động hoặc bị động. Và sau khi kết hợp các danh mục nhỏ lại người ta sẽ có một danh mục tổng thể sao cho hàm hiệu dụng của nó luôn đạt mức tối ưu.
1.2.4. Lý thuyết danh mục đầu tư của Harry Markowitz:
1.2.4.1 . Lý thuyết đa dạng hóa:
Những lý thuyết cổ điển về đa dạng hóa chứng khoán người ta cho đó là việc nắm giữ một số loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) của các ngành khác nhau (các ngành phục vụ công cộng, sản xuất, khai thác, chế biến…). Việc nắm giữ nhiều loại chứng khoán như vậy sẽ làm phân tán và tối thiểu hóa rủi ro do các khác biệt về bản chất của thành phần các cổ phiếu vốn, cộng với nhận thức cho rằng đầu tư vào các doanh nghiệp ở những ngành khác nhau mỗi ngành một cổ phiếu, sẽ có kết quả tốt hơn so với đầu tư tất cả vào các doanh nghiệp trong cùng một ngành.
( Đa dạng hóa giản đơn:
Đa dạng hóa giản đơn là việc kết hợp hóa một cách ngẫu nhiên một số chứng khoán với quyền số bằng nhau nhằm giảm rủi ro có thể đa dạng hóa (theo một số nghiên cứu thì số chứng khoán kết hợp ngẫu nhiên này chỉ từ 10-15 cổ phiếu là được). Mặc dù đa dạng hóa được phân tích với các quá trình chọn lựa ngẫu nhiên và quyền số bằng nhau là một kỹ thuật sơ đẳng, tuy vậy các kỹ thuật sơ đẳng này không làm mất khả năng hạ thấp rủi ro trong một danh mục đa dạng hóa (trung bình khoảng 15 tài sản thì giảm được ½ rủi ro).
( Đa dạng hóa giữa các ngành:
Một số nhà đầu tư khuyên nên chọn các chứng khoán từ các ngành khác nhau để đạt được sự đa dạng hóa tốt nhất. Tuy nhiên những nghiên cứu thực tế lại cho thấy việc đa dạng hóa giữa các ngành không tốt hơn nhiều so với việc lựa chọn ngẫu nhiên do lợi nhuận từ chứng khoán ở các ngành đều có mối tương quan lớn với nhau, cùng lên hoặc cùng xuống, do đó không thể triệt tiêu bằng đa dạng hóa theo các lựa chọn chứng khoán giữa các nhà đầu tư. Để khẳng định hơn nữa Lorie và Fisher đã thống kê và đưa ra bảng kết quả như sau:
Số cổ phiếu trong danh mục
Kỹ thuật đa dạng hóa sử dụng
Lợi nhuận tối thiểu (%)
Lợi nhuận tối đa (%)
Lợi nhuận trung bình (%)
Độ lệch chuẩn của lợi nhuận
8
8
16
16
32
32
128
Ngẫu nhiên
Từ nhiều ngành
Ngẫu nhiên
Từ nhiều ngành
Ngẫu nhiên
Từ nhiều ngành
Ngẫu nhiên
-47
-47
-37
-37
-31
-29
-29
164
158
121
121
98
93
78
13
13
13
13
13
13
13
0.22
0.22
0.21
0.21
0.20
0.20
0.19
Bảng thống kê kết quả từ các kỹ thuật đa dạng hóa khác nhau nghiên cứu trên thị trường chứng khoán NewYork. Hai ông cũng đưa ra nhận xét:
( Đa dạng hóa bằng cách chọn chứng khoán từ nhiều ngành không tốt hơn nhiều so với chọn ngẫu nhiên.
( Việc tăng số lượng chứng khoán trong danh mục lên cao thực ra không làm giảm đáng kể rủi ro của danh mục.
Như vậy, không nên đa dạng hóa quá mức danh mục đầu tư, thông thường từ 10-15 tài sản khác nhau cho một danh mục đã đảm bảo hạ thấp rủi ro theo các đa dạng hóa giản đơn. Nếu đa dạng hóa quá mức, đầu tư vào quá nhiều chứng khoán sẽ dẫn đến những bất lợi sau:
( Không có khả năng quản trị tốt danh mục: Nếu danh mục bao gồm quá nhiều tài sản khác nhau thì người quản trị danh mục không thể đồng thời nắm bắt hết tình hình của toàn bộ các tài sản đó.
( Mua phải những tài sản kém hiệu quả: Việc tìm kiếm để mua quá nhiều tài sản khác nhau sẽ dẫn đến việc mua phải những tài sản thiếu thông tin, do đó sẽ không mang lại lợi nhuận tương xứng với rủi ro phải gánh chịu.
( Chi phí tìm kiếm cao: Khi số lượng chứng khoán dự trù của danh mục đầu tư gia tăng, cổ phiếu cần thiết cho việc phân tích cũng tăng theo.
( Cổ phiếu giao dịch cao: Việc mua bán thay đổi thường xuyên những số lượng nhỏ cổ phiếu sẽ tốn kém nhiều tiền hoa hồng cho người môi giới.
Nói chung, việc đa dạng hóa quá mức một danh mục đầu tư không những không tốt hơn mà còn làm tăng chi phí quản lý danh mục, đưa đến kết quả là sẽ hạ thấp mức lợi nhuận cuối cùng của các chủ sở hữu.
1.2.4.2. Lý thuyết Markowitz:
Giới thiệu:
Harry Markowitz được coi là người đi tiên phong nghiên cứu quản lý danh mục đầu tư hiện đại. Chủ yếu ông đề cập đến việc đa dạng hóa và phân tán rủi ro danh mục đầu tư trên cơ sở lựa chọn một số chứng khoán không tương quan hoặc tương quan yếu nhằm hạn chế rủi ro toàn cục của danh mục đầu tư. Nhiều thế hệ độc giả sau đó đã phát triển thêm các lý thuyế