Trên thế giới, trong những năm gần đây, một nền kinh tế mới đang được hình
thành và phát triển với nhiều tên gọi khác nhau như nền kinh tế học tập, nền kinh tế
tri thức. Nền kinh tế này coi sự học tập suốt đời của mọi người trong xã hội là động
lực, tri thức là lực lượng sản xuất - trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm có hàm lượng
trí tuệ cao. Cùng với sự hình thành nền kinh tế mới là sự hình thành quan điểm mới
về giáo dục và đào tạo thể hiện qua triết lý giáo dục thế kỉ XXI: Học suốt đời, xây
dựng xã hội học tập.
Ở nước ta, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải
đổi mới mục tiêu giáo dục. Ngành giáo dục phải đào tạo ra một lớp người năng
động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực, phục vụ đắc lực cho mục tiêu kinh
tế - xã hội của đất nước. Để học thường xuyên, học suốt đời thì phải biết cách học.
Vì vậy, quan niệm về việc dạy và học đã thay đổi. Phải chuyển từ dạy và học thụ
động sang dạy và học tích cực. Học không chỉ để nắm lấy tri thức mà nắm cả
phương pháp giành lấy tri thức
153 trang |
Chia sẻ: duongneo | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xây dựng và sử dụng câu hỏi trắc nghiệm trong dạy học chương “dao động cơ” và “sóng cơ và sóng âm”, Vật lý 12 thpt nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Phùng Thị Cẩm Tú
XÂY DỰNG VÀ SỬ DỤNG CÂU HỎI
TRẮC NGHIỆM TRONG DẠY HỌC CHƯƠNG
“DAO ĐỘNG CƠ” VÀ “SÓNG CƠ VÀ SÓNG
ÂM”, VẬT LÝ 12 THPT NHẰM PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
Chuyên ngành: Lý luận và phương pháp dạy học môn Vật lý
Mã số: 60 14 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. THÁI KHẮC ĐỊNH
Thành phố Hồ Chí Minh - 2009
LỜI CÁM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc về sự hướng dẫn tận tình cùng
những lời động viên, khuyến khích của Tiến sĩ Thái Khắc Định – Trưởng khoa Vật
lý trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh trong suốt quá trình tôi nghiên cứu và
hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cám ơn đến:
- Các thầy cô giáo là giảng viên lớp K17 Lý luận và phương pháp dạy học Vật lý
- Phòng Khoa học công nghệ - Sau đại học, trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí
Minh
- Ban giám hiệu, các giáo viên trường Cao đẳng Sư phạm Bình Phước
- Thầy Nguyễn Hữu Tiến, các thầy cô giáo tổ Vật lý và các em học sinh lớp
12A1, 12A2 trường PTTH Đồng Xoài, TX. Đồng Xoài, Bình Phước
- Bạn bè và các học viên của lớp K17 Lý luận và phương pháp giảng dạy Vật lý
đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Xin chân thành cám ơn!
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CHTN Câu hỏi trắc nghiệm
GV Giáo viên
HS Học sinh
PHT Phiếu học tập
PPDH Phương pháp dạy học
SGK Sách giáo khoa
THPT Trung học phổ thông
TN Trắc nghiệm
TNKQ Trắc nghiệm khách quan
TNSP Thực nghiệm sư phạm
1
MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Trên thế giới, trong những năm gần đây, một nền kinh tế mới đang được hình
thành và phát triển với nhiều tên gọi khác nhau như nền kinh tế học tập, nền kinh tế
tri thức. Nền kinh tế này coi sự học tập suốt đời của mọi người trong xã hội là động
lực, tri thức là lực lượng sản xuất - trực tiếp sản xuất ra các sản phẩm có hàm lượng
trí tuệ cao. Cùng với sự hình thành nền kinh tế mới là sự hình thành quan điểm mới
về giáo dục và đào tạo thể hiện qua triết lý giáo dục thế kỉ XXI: Học suốt đời, xây
dựng xã hội học tập.
Ở nước ta, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi phải
đổi mới mục tiêu giáo dục. Ngành giáo dục phải đào tạo ra một lớp người năng
động, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực, phục vụ đắc lực cho mục tiêu kinh
tế - xã hội của đất nước. Để học thường xuyên, học suốt đời thì phải biết cách học.
Vì vậy, quan niệm về việc dạy và học đã thay đổi. Phải chuyển từ dạy và học thụ
động sang dạy và học tích cực. Học không chỉ để nắm lấy tri thức mà nắm cả
phương pháp giành lấy tri thức.
Việc đổi mới phương pháp giáo dục phổ thông đã và đang được thực hiện
thông qua việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa nhằm đổi mới căn bản về
phương pháp dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động và
sáng tạo của học sinh; bồi dưỡng phương pháp tự học; rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, mang lại niềm vui, hứng thú học tập
cho học sinh. Định hướng đổi mới dạy học này được xây dựng xuất phát từ quan
điểm cơ bản: dạy học các môn khoa học ở nhà trường không chỉ là giúp cho học
sinh có được một số kiến thức cụ thể nào đó. Điều cơ bản hơn, quan trọng hơn là
trong quá trình dạy học các tri thức cụ thể đó, rèn luyện cho học sinh tiềm lực để khi
ra trường họ có thể tiếp tục tự học tập, có khả năng nghiên cứu tìm tòi sáng tạo, giải
quyết các vấn đề, đáp ứng được những đòi hỏi đa dạng của hoạt động thực tiễn
không ngừng phát triển. Chỉ trong điều kiện dạy học như vậy mới đảm bảo cho
2
những kiến thức mà học sinh đã học thật sự là những kiến thức có chất lượng, sâu
sắc, vững chắc và vận dụng được.
Tuy nhiên, việc đổi mới phương pháp – thực hiện dạy và học tích cực –
không có nghĩa là gạt bỏ các phương pháp dạy học truyền thống. Đổi mới phương
pháp cần kế thừa và phát triển những mặt tích cực của hệ thống các PPDH đã quen
thuộc, có sử dụng thêm các phương tiện, kĩ thuật phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện
dạy và học. PPDH đàm thoại được tổ chức dưới hình thức dạy và học hợp tác trong
nhóm nhỏ là phương pháp khá tích cực nếu được sử dụng một cách hợp lý với hệ
thống câu hỏi thích hợp.
Từ trước đến nay, CHTN phần lớn chỉ được sử dụng trong hoạt động kiểm
tra đánh giá bởi những ưu điểm cơ bản như độ phủ rộng kiến thức, tính chính xác,
khách quan, tăng cường độ nhanh nhạy phán đoán tình huống... Nhược điểm cơ bản
của CHTN là không kiểm tra được năng lực diễn đạt và lập luận của học sinh. Một
hướng khác chưa phổ biến lắm là sử dụng CHTN trong việc hình thành kiến thức
mới, củng cố ôn tập. Với khả năng định hướng hoạt động tư duy, các CHTN nếu
được sử dụng hợp lý sẽ tiết kiệm được thời gian dạy học, rèn luyện khả năng suy
nghĩ theo nhiều hướng. Quá trình sử dụng CHTN vào dạy học kiến thức mới còn
cho thấy được lập luận của học sinh – khắc phục được nhược điểm của CHTN trong
kiểm tra, đánh giá. Sử dụng CHTN trong dạy học là một trong những hướng nhằm
kích thích hứng thú học tập bộ môn, phát huy tính tích cực, phát triển khả năng làm
việc nhóm, tập dợt cho học sinh nghiên cứu sách giáo khoa có định hướng theo chỉ
đạo của giáo viên. Sử dụng CHTN vào việc thực hiện các PPDH tích cực không có
sự đòi hỏi đặc biệt nào về các phương tiện hỗ trợ cũng như không có quá nhiều sự
thay đổi so với các PPDH truyền thống. Vì thế, việc sử dụng CHTN vào dạy học dễ
dàng được giáo viên chấp nhận và áp dụng vào thực tiễn dạy học hơn các phương
pháp mới khác.
Từ những lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Xây dựng và sử dụng
câu hỏi trắc nghiệm trong dạy học chương “Dao động cơ” và “Sóng cơ và sóng
âm”, Vật lý 12 THPT nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.”
3
II. Mục đích nghiên cứu
Xây dựng và đề xuất cách thức sử dụng CHTN vào việc thiết kế phương án
dạy học cho một số bài học trong chương “Dao động cơ” và “Sóng cơ và sóng âm”,
Vật lý 12 THPT nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
III. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 12 THPT trong quá trình học tập chương
“Dao động cơ” và “Sóng cơ và sóng âm”, Vật lý 12
- Đối tượng nghiên cứu: Phương án dạy học theo hướng có dùng CHTN trong dạy
học một số bài học của chương “Dao động cơ” và “Sóng cơ và sóng âm”, Vật lý 12
THPT nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
IV. Giả thuyết khoa học
Sử dụng phương án dạy học có dùng các CHTN được xây dựng theo các
mức độ nhận thức khác nhau sẽ giúp phát huy được tính tích cực học tập của học
sinh.
V. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập
của học sinh.
- Xác định mục tiêu dạy học và cấu trúc nội dung chương “Dao động cơ” và
“Sóng cơ và sóng âm”, Vật lý 12 THPT.
- Nghiên cứu những cơ sở lý luận của phương pháp trắc nghiệm và sử dụng để soạn
thảo các CHTN cho một số bài học trong chương “Dao động cơ” và “Sóng cơ và
sóng âm”.
- Đề xuất sử dụng CHTN để xây dựng phương án dạy học một số bài học nhằm phát
huy tính tích cực học tập của học sinh khi học hai chương này.
- Thực nghiệm sư phạm để đánh giá tính giá trị của các CHTN và hiệu quả của việc
sử dụng CHTN vào quá trình dạy học.
- Nêu lên các kết luận có ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài, đề xuất các
hướng phát triển đề tài.
4
VI. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn trong hai chương: “Dao động cơ” và “Sóng cơ và sóng âm”
của chương trình Vật lý 12 THPT.
VII. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận:
+ Nghiên cứu các tài liệu lý luận dạy học nhằm tìm hiểu các quan điểm dạy học
hiện nay, cơ sở lý luận của việc dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập của
học sinh.
+ Nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa, sách giáo viên, sách bài tập, các sách
tham khảo để xác định nội dung, cấu trúc logic của các kiến thức của chương “Dao
động cơ” và “Sóng cơ và sóng âm”, Vật lý 12 THPT mà học sinh cần nắm vững.
+ Nghiên cứu các tài liệu về trắc nghiệm, tìm hiểu cách viết CHTN có chất lượng và
cách sử dụng CHTN vào dạy học sao cho có hiệu quả.
- Tiến hành soạn thảo, sửa chữa và hoàn thiện các CHTN. Xây dựng phương án dạy
học một số bài học có sử dụng các CHTN để thực hiện các PPDH tích cực.
- Thực nghiệm sư phạm: đánh giá tính giá trị của các CHTN, hiệu quả của việc sử
dụng CHTN vào xây dựng phương án dạy học.
- Phương pháp thống kê toán: Xử lý, thống kê, đánh giá kết quả thực nghiệm sư
phạm.
VIII. Những đóng góp mới của đề tài
Xây dựng được các CHTN cho các bài học trong hai chương “Dao động cơ”
và “Sóng cơ và sóng âm”, Vật lý 12 THPT và thiết kế phương án dạy học có sử
dụng các CHTN này nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh.
5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM
VÀ VIỆC PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
1.1 Cơ sở lý luận về câu hỏi trắc nghiệm
1.1.1 Mục tiêu của bài học vật lý
Việc cải tiến phương pháp dạy học cần được thực hiện ở tất cả các khâu: xác
định mục tiêu bài học, tổ chức hoạt động học tập, đánh giá kết quả học tập của học
sinh trong đó việc lượng hoá mục tiêu bài học vật lý là hoạt động đầu tiên và
đóng vai trò rất quan trọng. Từ nhiều năm nay, mục tiêu bài học (mục đích yêu cầu)
thường được viết chung chung như: HS phải nắm được khái niệm dao động tắt dần,
phương trình dao động điều hòa hay viết theo hướng là những điều mà GV sẽ
phải làm trong quá trình giảng dạy như: cung cấp cho học sinh kiến thức về con lắc
đơn hay rèn luyện khả năng giải bài tập Với cách trình bày mục tiêu bài học như
vậy, ta không có cơ sở để biết khi nào thì HS đạt được mục tiêu đó.
Theo định hướng dạy học mới, mục tiêu của bài học được thể hiện bằng sự
khẳng định về kiến thức, kĩ năng và thái độ mà người học sẽ phải đạt được ở một
mức độ nhất định sau tiết học. Mục tiêu của bài học sẽ là căn cứ để đánh giá chất
lượng học tập của HS và hiệu quả thực hiện bài dạy của GV. Do đó, mục tiêu bài
học phải cụ thể sao cho có thể đo được hay quan sát được ( mục tiêu bài học phải
được lượng hóa). Mục tiêu thường được lượng hóa bằng các động từ hành động,
một động từ có thể dùng ở các nhóm mục tiêu khác nhau.
Về kiến thức: B.S.Bloom đã xây dựng các cấp độ của mục tiêu giáo dục, thường
được gọi là cách phân loại Bloom, trong đó lĩnh vực nhận thức được chia thành các
mức độ hành vi từ đơn giản đến phức tạp với sáu mức độ:
- Nhận biết: là sự ghi nhớ hoặc nhận biết thông tin. Các động từ hành động
thường được dùng để lượng hóa mục tiêu ở mức độ này là: phát biểu, liệt kê, mô tả,
trình bày, nhận dạng, phân loại, đối chiếu, kết nối, lựa chọn, phác thảo Các hoạt
động phù hợp với tư duy nhận biết là vấn đáp tái hiện, phiếu học tập, tra cứu thông
tin, tìm các định nghĩa
6
- Thông hiểu: là khả năng hiểu, diễn dịch, diễn giải, giải thích hoặc suy diễn
(dự đoán được kết quả hoặc hậu quả). Hiểu không đơn thuần là nhắc lại cái gì đó
mà là có khả năng diễn đạt khái niệm theo ý cá nhân. Những hoạt động tương ứng
với mức độ hiểu có thể là phân loại, giải thích, tổng hợp, dự đoán, diễn giải, tổng
kết, viết lại Các động từ dùng để lượng hóa: phân tích, so sánh, phân biệt, tóm tắt,
liên hệ, xác định Các hoạt động phù hợp với mức độ tư duy hiểu là sắm vai tranh
luận, dự đoán, diễn giải
- Vận dụng: là bắt đầu của mức tư duy sáng tạo. Vận dụng là khả năng sử
dụng kiến thức vào các tình huống mới, thường dùng các động từ như giải thích,
chứng minh, vận dụng, tính toán, giải quyết. Hoạt động phù hợp với mức tư duy vận
dụng đó là trình bày theo nhóm hoặc theo lớp.
- Phân tích: khả năng nhận biết chi tiết, phát hiện và phân biệt các bộ phận
cấu thành của thông tin hay tình huống. Đây chính là khả năng phân nhỏ đối tượng
thành các hợp phần cấu thành để hiểu rõ về cấu trúc của nó. Các hoạt động liên
quan đến mức độ phân tích có thể là vẽ biểu đồ, lập dàn ý hoặc chia nhỏ các thành
phần, suy luận, sắp xếp trật tự. Các động từ tương ứng với mức độ tư duy phân tích
là: phân tích, lựa chọn, vẽ biểu đồ, phân biệt, đối chiếu, so sánh, liên hệCác hoạt
động phù hợp với mức tư duy phân tích là đưa ra các suy luận, so sánh đối chiếu
- Tổng hợp: là khả năng hợp nhất các thành phần để tạo thành một tổng thể,
sự vật lớn. Tổng hợp liên quan đến khả năng kết hợp các thành phần cùng nhau để
tạo một dạng mới. Các hoạt động liên quan đến mức độ tổng hợp có thể gồm: thiết
kế, đặt kế hoạch, tạo ra Các động từ tương ứng với mức độ tư duy tổng hợp là
thảo luận, so sánh, xây dựng, sắp đặt, tổ chức Các hoạt động phù hợp với mức tư
duy tổng hợp là đặt kế hoạch, xác định vấn đề, tổ chức, tìm những sự kết hợp mới
- Đánh giá: là khả năng phán xét giá trị hoặc sử dụng thông tin theo các tiêu
chí thích hợp (Hỗ trợ đánh giá bằng lý do, lập luận). Để sử dụng đúng mức độ này
phải có khả năng giải thích tại sao, sử dụng những lập luận giá trị để bảo vệ quan
điểm. Những hoạt động liên quan đến mức độ đánh giá là so sánh, phân biệt, biện
luận, đưa ra kết luận. Các động từ tương ứng với mức độ tư duy đánh giá là đánh
7
giá, lựa chọn, ước tính, tranh luận Các hoạt động phù hợp với mức tư duy đánh
giá là đưa ra những đánh giá về bài trình bày của người khác, đánh giá các số liệu,
các tiêu chí đưa ra để áp dụng, đánh giá ý tưởng và sản phẩm của ai đó
Trong giai đoạn đầu của việc đổi mới phương pháp dạy học, ta tạm thời sử
dụng ba mức độ đầu, còn ba mức độ sau có thể coi như những trình độ khác nhau
của mức độ vận dụng.
Về kĩ năng: có hai mức độ là làm được một công việc và làm thành thạo một công
việc. Các động từ hành động thường được dùng là: nhận dạng, liệt kê, thu thập, đo
đạc, vẽ, phân loại, tính toán, sử dụng, làm thí nghiệm
Về thái độ: thường dùng các động từ sau: tuân thủ, tán thành, phản đối, hưởng ứng,
chấp thuận, bảo vệ, hợp tác
1.1.2 Xây dựng câu hỏi trắc nghiệm theo các mức độ nhận thức khác nhau
1.1.2.1 Khái niệm
Theo GS Trần Bá Hoành: “Trắc nghiệm trong giáo dục là một phương pháp
để thăm dò một số đặc điểm năng lực trí tuệ của HS như chú ý, tưởng tượng, ghi
nhớ, thông minh, năng khiếu hoặc để kiểm tra đánh giá một số kiến thức, kĩ
năng, kỹ xảo, thái độ của HS. Cho tới nay người ta thường hiểu trắc nghiệm là một
bài tập nhỏ hoặc câu hỏi có kèm theo những câu trả lời sẵn, yêu cầu HS sau khi suy
nghĩ dùng một kí hiệu đơn giản để trả lời”.
Về CHTN (khách quan): Theo TS Trần Vui thì CHTN là loại câu hỏi mà một
số phương án trả lời đã được cho sẵn, trong đó có một hoặc nhiều hơn một câu trả
lời đúng. Nếu HS phải viết câu trả lời thì đó là những thông tin ngắn gọn và duy
nhất đúng. Theo GS Trần Bá Hoành thì trắc nghiệm khách quan là dạng trắc nghiệm
trong đó mỗi câu hỏi hoặc câu dẫn có kèm theo những câu trả lời hoặc phương án
lựa chọn sẵn và đòi hỏi HS phải chọn một trong những phương án đó.
1.1.2.2 Các kiểu câu hỏi trắc nghiệm
- Câu ghép đôi: là những câu hỏi có hai dãy thông tin, dãy bên trái là phần
dẫn trình bày những nội dung cần kiểm tra (khái niệm, định nghĩa, định luật, hiện
tượng), dãy bên phải là phần trả lời, trình bày các nội dung (câu, mệnh đề, công
8
thức) phù hợp với nội dung của phần dẫn; đòi hỏi HS phải ghép đúng từng cặp
nhóm từ ở hai cột với nhau sao cho phù hợp về ý nghĩa.
CHTN loại này thích hợp với việc hỏi về các sự kiện, khả năng nhận biết
kiến thức hay thiết lập những mối tương quan và không thích hợp cho việc áp dụng
các kiến thức mang tính nguyên lý, quy luật và mức đo các khả năng trí năng cao;
thường sử dụng để củng cố kiến thức vừa học hay toàn bài.
- Câu trắc nghiệm điền khuyết: có thể là những câu hỏi với giải đáp ngắn hay
là những câu phát biểu với một hay nhiều chỗ để trống. Căn cứ vào dữ liệu, thông
tin đã cho hoặc đã biết, HS phải điền vào bằng một từ hay một nhóm từ cần thiết.
CHTN loại này sẽ giúp hạn chế khả năng đoán mò, tăng khả năng sáng tạo của HS.
Có thể đánh giá mức hiểu biết về các nguyên lý, giải thích các sự kiện, diễn đạt ý
kiến và thái độ của bản thân đối với vấn đề đặt ra. Rất thích hợp để kiểm tra các
kiến thức về định luật, công thức, các thí nghiệm ở mức độ hiểu.
- Câu đúng sai: đưa ra một nhận định, HS phải lựa chọn một trong hai
phương án trả lời để khẳng định nhận định đó là đúng hay sai. Loại câu này thích
hợp với những kiến thức mang tính lý thuyết như định nghĩa, công thức, khái niệm;
những kiến thức mang tính sự kiện và có thể kiểm tra nhiều kiến thức trong một
thời gian ngắn. Tuy nhiên, câu trắc nghiệm dạng này thường có khuynh hướng trích
nguyên văn sách giáo khoa nên sẽ làm cho HS có thói quen học thuộc lòng hơn là
suy nghĩ, tìm tòi.
- Câu nhiều lựa chọn: bao gồm hai phần:
+ Phần mở đầu (câu dẫn): trình bày một vấn đề, một câu hỏi hoặc một câu
chưa hoàn chỉnh
+ Phần trả lời (phần lựa chọn): gồm một số câu trả lời hoặc mệnh đề (thường
là 4) để trả lời hoặc hoàn chỉnh phần dẫn. Trong số các phương án trả lời chỉ có
một phương án đáp ứng đúng yêu cầu của phần dẫn, các phương án khác được đưa
vào có tác dụng gây nhiễu cho HS. Các phương án nhiễu phải được xây dựng sao
cho đều có vẻ “có lý” và “hấp dẫn” như phương án đúng.
9
1.1.2.3 Các đặc điểm của phương pháp trắc nghiệm
- HS phải trả lời các CHTN theo các phương án trả lời cho sẵn, thông thường
một câu hỏi chỉ có một phương án là đúng hoặc phù hợp nhất. Như vậy, HS trả lời
CHTN theo một khuôn khổ định sẵn, không thể đưa ra ý kiến nào khác của mình.
- Vì thời gian cần thiết để trả lời một CHTN thường rất ngắn nên một đề thi
có thể bao gồm rất nhiều câu hỏi, có thể đánh giá bao trùm chương trình của một
môn học.
- Kiến thức giúp HS lựa chọn đúng các phương án trả lời các CHTN, tuy
nhiên HS không có kiến thức cũng có thể “đoán mò” để trả lời.
- HS có thể nhận biết kiến thức qua các CHTN chứ không cần phải nhớ lại
để trình bày.
- Bài kiểm tra trắc nghiệm thường được chấm điểm bằng cách so sánh xem
việc chọn phương án đúng của HS có trùng với đáp án cho sẵn hay không một cách
máy móc, do đó người chấm điểm không đưa ra quan điểm riêng để đánh giá bài
trắc nghiệm.
- Vì được xây dựng trên cơ sở khoa học xác suất thống kê nên trắc nghiệm
khách quan có nhiều lý thuyết và công cụ để xử lý định lượng. Do tính định lượng
cao của trắc nghiệm khách quan nên có thể nâng cao chất lượng của từng câu hỏi
theo các mục tiêu đặt ra.
1.1.2.4 Những điều cần lưu ý khi chế tác câu hỏi trắc nghiệm
Khi biên soạn các CHTN cần tuân theo các quy tắc sau:
- Các quy tắc biên soạn liên quan đến việc cân đối câu hỏi với các mục đích hỏi
CHTN phải có dạng thích hợp với phương pháp đánh giá đặt ra. Cần tránh
các CHTN khi ta cần đặt các câu hỏi:
+ Câu hỏi mở
+ Câu hỏi dành cho việc đánh giá khả năng tóm tắt và hệ thống vấn đề
+ Câu hỏi đánh giá khả năng tập trung và khả năng sáng tạo.
CHTN không được gây trở ngại cho việc học: Trong câu hỏi mà yêu cầu chủ yếu
chỉ là ghi nhớ thì cần tránh cho HS sự sao nhãng mục tiêu chính của của câu hỏi.
10
- Quy tắc biên soạn liên quan đến giá trị chuẩn đoán câu trả lời
+ CHTN cần phải hướng GV đến quá trình suy nghĩ của HS
+ Các yếu tố gây ra sự sao nhãng trong câu hỏi cần phải chỉ rõ được các lỗi
tư duy không chính xác của HS. CHTN cần được xây dựng trên các lỗi HS hay mắc
phải. Như vậy, các yếu tố gây sự sao nhãng mới có tác dụng trắc nghiệm khả năng
tiếp thu của HS.
Loại ghép đôi:
+ Hướng dẫn rõ về yêu cầu của việc ghép cho phù hợp
+ Đánh số ở một cột và chữ ở cột kia
+ Các dòng trên mỗi cột phải tương đương nhau về nội dung, hình thức, ngữ
pháp, độ dài
+ Tránh các câu phủ định
+ Mỗi cột thường chỉ nên có từ 5 đến 10 ý; các câu chọn để ghép đôi nên
nhiều hơn câu gốc 2, 3 ý.
Loại điền khuyết:
+ Chỉ nên để một chỗ trống
+ Thiết kế sao cho có thể trả lời bằng một từ đơn nhất mang tính đặc trưng
+ Cung cấp đủ thông tin để chọn từ trả lời
+ Chỉ có một lựa