Hệ số huy động thuế do còn gọi là độ lớn của gánh nặng thuế đánh vào cộng đồng, vì vậy mặt nào đó thể hiện sức chịu đựng của nhân dân trong việc huy động thuế của nhà nước. Hệ số huy động thuế của một quốc gia tăng, chứng tỏ tốc độ tăng tiết kiệm của khu vực dân cư sẽ giảm và tất yếu phần đầu tư trong khu vực tư nhân sẽ khó có khả năng gia tăng. Trong trường hợp hệ số huy động tăng, nhưng chi tiêu chính phủ hợp lý, đầu tư của Chính Phủ hiệu quả, thì sự tăng trưởng của nền kinh tế vẫn bình ổn. Tuy nhiên, theo đánh giá thông thường, đầu tư trong khu vực nhà nước thường kém hiệu quả hơn trong đầu tư của lĩnh vực tư nhân, vì vậy việc tăng mức huy động thuế quá cao sẽ làm cho nền kinh tế giảm bớt nhịp độ phát triển.
Thông thường việc huy động tiền thuế là do cơ quan thuế đảm nhận. Mức huy động cao sẽ gây khó khăn cho việc hành thu và dưới con mắt người dân, cơ quan thuế sẽ khó được thông cảm. Tuy nhiên, việc huy động thuế có thực sự trở thành gánh nặng hay không, còn tùy thuộc vào việc sử dụng tiền thuế của nhà nước đó. Việc sử dụng tiền thuế của các nhà nước trong các thời kỳ tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
Thời kỳ mới xây dựng nhà nước: tiền thuế chủ yếu dùng để mua hàng hoá và dịch vụ để cung ứng cho các hoạt động công cộng thiết yếu như: an ninh, quốc phòng, y tế, giáo dục. Trong thời kỳ này mức thu thường thấp vì kinh tế đang trong tình trạng bất ổn và đời sống nhân dân đang còn nhiều khó khăn. Mức huy động tuy thấp, nhưng để bảo đảm cho các nhiệm vụ chi tiêu này, tỷ lệ huy động trên GDP cũng không thấp.
Thời kỳ ổn định nhà nước: ngoài việc đảm bảo chi cho các nhiệm vụ thiết yếu của đất nước như trên, nhà nước còn sử dụng tiền thuế để trợ giúp thêm cho một nhóm người không còn khả năng lao động, đặc biệt là những người đã đóng góp vào thành quả xây dựng nhà nước - gọi chung là đối tượng xã hội.
Thời kỳ phát triển thêm chức năng kinh tế: Khi thực hiện chức năng điều tiết kinh tế thị trường, các nhà nước thường sử dụng tiền thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Một số nhà nước dùng tiền thuế để phát triển các ngành sản xuất độc
51 trang |
Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3920 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Lý luận cơ bản về thuế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ
I. NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT THUẾ
1.1. Nguồn gốc của thuế
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Để duy trì sự tồn tại của mình, nhà nước cần có những nguồn tài chính để chi tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung ương đến địa phương, thuộc phạm vi lãnh thổ mà nhà nước đó đang cai quản; chi cho các công việc ban đầu thuộc chức năng của nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi cho xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi công cộng, về sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài.
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu chung, nhà nước thường sử dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng quyền lực nhà nước bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó, hình thức quyên góp tiền và tài sản của dân và hình thức vay của dân là những hình thức tự nguyện, không mang tính ổn định và lâu dài, thường được nhà nước sử dụng có giới hạn trong một số trường hợp đặc biệt, để bổ sung cho những nhiệm vụ chi đột xuất hoặc cấp bách. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, nhà nước dùng quyền lực buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho ngân sách nhà nước. Đây là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài chính cho đất nước.
Hình thức nhà nước dùng quyền lực buộc dân đóng góp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình - chính là thuế.
Về quan hệ giữa nhà nước và thuế, Mác đã viết: "Thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước, là thủ đoạn đơn giản để kho bạc thu được tiền hay sản vật mà người dân phải đóng góp để dùng vào mọi việc chi tiêu của nhà nước". Ăng ghen cũng đã viết: "Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có sự đóng góp của công dân cho nhà nước, đó là thuế".
Thuế luôn gắn chặt với sự hình thành và tồn tại của hệ thống nhà nước, đồng thời thuế cũng phát triển cùng với sự phát triển của hệ thống nhà nước.
Thuế xuất hiện từ khá lâu, từ lúc nhà nước bắt đầu xuất hiện, tuy nhiên khoa học về thuế chỉ ra đời vào cuối thời kỳ phong kiến, đầu thời kỳ chủ nghĩa tư bản. Các lý thuyết về thuế được xây dựng trên các học thuyết kinh tế dựa trên cơ sở một nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường, tùy theo mức độ thị trường hoá các quan hệ kinh tế đặc thù của mỗi quốc gia, mà các chính phủ vận dụng các lý thuyết vào hệ thống chính sách thuế của mình một cách thích hợp. Việc suy tôn học thuyết này hay học thuyết khác chỉ mang tính lịch sử, không mang tính đối kháng và điều quan trọng nhất cho các nhà hoạch định chính sách thuế các quốc gia là tìm ra những ứng dụng hiệu quả nhất, để thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ của thuế trong cơ chế thị trường mà không quá chú trọng vào trường phái lý thuyết nhất định.
1.2. Bản chất của thuế
Thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Bản chất của Nhà nước quy định bản chất của thuế. Về mặt lý luận, bản chất của nhà nước vốn mang tính giai cấp. Không có một nhà nước phi giai cấp mà chỉ có nhà nước của giai cấp nào mà thôi. Vì vậy, suy cho cùng bản chất thuế cũng mang tính giai cấp. Có thể hiểu được điều này, thông qua nội dung cuộc nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu nhân dân địa phương tại Thanh Hoá, ngày 13-6-1957, như sau:
“…Trước kia phải nộp thuế, nay dân chủ cũng phải nộp thuế. Trước ta nộp thuế là nộp cho Tây, chúng lấy mồ hôi nước mắt của nhân dân ta mà làm giàu cho chúng nó, để xây dựng bộ máy áp bức bóc lột đồng bào ta. Nhưng nay ta đóng thuế là để làm lợi cho ta.
…
Tóm lại, muốn xây dựng nước nhà, Chính phủ phải có tiền, tiền đó do đồng bào góp lại. Trước hết là đồng bào nông dân đông nhất, rồi đến công thương. Nếu không có tiền thì Chính phủ không xây dựng được. Vì vậy, đồng bào phải giúp Chính phủ, nghĩa là đồng bào phải nộp thuế”
- Trong chế độ phong kiến, hệ thống thuế khoá nhằm huy động sự đóng góp tiền bạc của dân chúng để nuôi dưỡng quân đội, tổ chức bộ máy công quyền, quan lại để cai trị trong cả nước. Người dân được hưởng rất ít các phúc lợi công cộng từ phía nhà nước.
- Đến khi giai cấp tư sản nắm được chính quyền, giai đoạn đầu họ chủ trương xây nhà nước tự do, không can thiệp vào hoạt động kinh tế của các lực lượng kinh tế thị trường. Nhà nước chỉ đảm nhận nhiệm vụ giữ gìn an ninh, quốc phòng. Thuế khóa chỉ đóng vai trò huy động nguồn lực tài chính tối thiểu để nuôi sống bộ máy nhà nước và đáp ứng nhu cầu chi tiêu công cộng khác. Nhưng khi bước vào những năm 29- 33 của thế kỷ XX, nền kinh tế của các nước tư bản lâm vào khủng hoảng. Để đưa nền kinh tế thoát khỏi khủng hoảng, nhà nước tư sản phải can thiệp vào hoạt động kinh tế bằng cách lập ra các chương trình đầu tư lớn và thực hiện tái phân phối thu nhập xã hội thông qua các công cụ tài chính. Trong số các công cụ trên thì thuế là công cụ quan trọng và sắc bén để nhà nước thực hiện điều chỉnh nền kinh tế.
- Hệ số huy động thuế
Mặc dù, thuế được coi là công cụ chủ yếu để huy động tập trung nguồn lực tài chính cho nhà nước, nhưng không có nghĩa là nhà nước có thể quy định mức động viên thuế cao để tăng thu về thuế bằng mọi giá, mà mức độ động viên thuế chỉ có một giới hạn nhất định. Nếu nhà nước dùng quyền lực để tập trung quá mức phần thu nhập từ tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vào cho ngân sách nhà nước, thì phần GDP còn lại dành cho các doanh nghiệp và cá nhân sẽ giảm xuống. Đến một lúc nào đó, nếu họ nhận thấy rằng công sức bỏ vào kinh doanh, vào làm việc được bù đắp không thoả đáng thì họ sẽ nghỉ không kinh doanh hoặc chuyển sang kinh doanh ngầm và tìm mọi cách để trốn thuế. Như vậy, có thể thấy rằng, khả năng thu thuế tối đa cho ngân sách nhà nước là khoản thu nhập mà các doanh nghiệp và người dân sẵn sàng giành ra để trả thuế mà không làm thay đổi mọi hoạt động vốn có của họ. Đứng trên giác độ nền kinh tế quốc dân, khả năng thu thuế của một quốc gia được phản ánh thông qua tỷ lệ phần trăm của GDP được động viên vào ngân sách nhà nước được gọi là hệ số huy động thuế hay hệ số gánh nặng thuế.
Hệ số huy động thuế không chỉ là cơ sở chính để tham khảo việc các quốc gia xây dựng chính sách thuế của họ mà còn là một dấu hiệu để so sánh mức độ huy động thuế giữa các quốc gia khác nhau. Hệ số huy động thuế này bao nhiêu thì ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập sau thuế và gián tiếp đến mức tiêu dùng và tiêu chuẩn sống của nhân dân. Đó là điều mà các quốc gia cần cân nhắc. Trong giai đoạn kinh tế thị trường hội nhập quốc tế, hệ số huy động thuế có thể phản ảnh xu thế dịch chuyển dòng vốn, lao động giữa các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, để gia tăng sự phồn vinh trong cộng đồng dân cư, tất cả các quốc gia xem thuế là nguồn thu chính, phải đưa ra một mức thuế hợp lý trong chính sách thuế của mình. Độ lớn của hệ số huy động thuế vì thế trở thành một trong những dấu hiệu quan trọng để đánh giá việc hoàn thiện hơn của một nền kinh tế.
Nếu gọi T là tổng số thuế có thể thu được vào Ngân sách Nhà nước thì hệ số huy động thuế là: T/GDP X 100
Hệ số này được dùng để chỉ ranh giới phân chia hợp lý thu nhập xã hội giữa các khu vực công cộng và khu vực tư nhân. Nếu Nhà nước động viên thuế chưa đạt tới giới hạn khả năng thu thuế thì nguồn lực xã hội tập trung vào tay Nhà nước chưa đầy đủ. Nếu Nhà nước động viên vượt quá giới hạn khả năng thu thuế thì sẽ làm giảm khả năng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng tại doanh nghiệp, do đó làm giảm số thuế thu được trong tương lai.
Hệ số huy động thuế bình quân hàng năm từ năm 1992 thường là 17% và luôn có khuynh hướng luôn gia tăng. Hệ số huy động thuế giữa các quốc gia khác nhau tùy theo trình độ phát triển của nền kinh tế nước đó đang trong giai đoạn nào. Ví dụ: Hệ số này ở Đài loan trong năm 1996 là 19,8%, trong khi đó Mỹ là 22,5% và Nhật là 17,5%.
Trong chương trình hành động nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra chỉ tiêu duy trì tỷ lệ động viên từ GDP vào ngân sách khoảng từ 18 đến 19%. Như vậy tính trên GNP khả năng chúng ta chỉ đạt đến gần 17% bởi phần FDI trong nước lớn, trong khi phần đầu tư ra nước ngoài chúng ta còn hạn chế, vì vậy gánh nặng thuế của chúng ta vẫn thuộc nhóm thấp trên thế giới.
- Bản chất nhà nước và các nội dung sử dụng tiền thuế
Hệ số huy động thuế do còn gọi là độ lớn của gánh nặng thuế đánh vào cộng đồng, vì vậy mặt nào đó thể hiện sức chịu đựng của nhân dân trong việc huy động thuế của nhà nước. Hệ số huy động thuế của một quốc gia tăng, chứng tỏ tốc độ tăng tiết kiệm của khu vực dân cư sẽ giảm và tất yếu phần đầu tư trong khu vực tư nhân sẽ khó có khả năng gia tăng. Trong trường hợp hệ số huy động tăng, nhưng chi tiêu chính phủ hợp lý, đầu tư của Chính Phủ hiệu quả, thì sự tăng trưởng của nền kinh tế vẫn bình ổn. Tuy nhiên, theo đánh giá thông thường, đầu tư trong khu vực nhà nước thường kém hiệu quả hơn trong đầu tư của lĩnh vực tư nhân, vì vậy việc tăng mức huy động thuế quá cao sẽ làm cho nền kinh tế giảm bớt nhịp độ phát triển.
Thông thường việc huy động tiền thuế là do cơ quan thuế đảm nhận. Mức huy động cao sẽ gây khó khăn cho việc hành thu và dưới con mắt người dân, cơ quan thuế sẽ khó được thông cảm. Tuy nhiên, việc huy động thuế có thực sự trở thành gánh nặng hay không, còn tùy thuộc vào việc sử dụng tiền thuế của nhà nước đó. Việc sử dụng tiền thuế của các nhà nước trong các thời kỳ tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:
Thời kỳ mới xây dựng nhà nước: tiền thuế chủ yếu dùng để mua hàng hoá và dịch vụ để cung ứng cho các hoạt động công cộng thiết yếu như: an ninh, quốc phòng, y tế, giáo dục. Trong thời kỳ này mức thu thường thấp vì kinh tế đang trong tình trạng bất ổn và đời sống nhân dân đang còn nhiều khó khăn. Mức huy động tuy thấp, nhưng để bảo đảm cho các nhiệm vụ chi tiêu này, tỷ lệ huy động trên GDP cũng không thấp.
Thời kỳ ổn định nhà nước: ngoài việc đảm bảo chi cho các nhiệm vụ thiết yếu của đất nước như trên, nhà nước còn sử dụng tiền thuế để trợ giúp thêm cho một nhóm người không còn khả năng lao động, đặc biệt là những người đã đóng góp vào thành quả xây dựng nhà nước - gọi chung là đối tượng xã hội.
Thời kỳ phát triển thêm chức năng kinh tế: Khi thực hiện chức năng điều tiết kinh tế thị trường, các nhà nước thường sử dụng tiền thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Một số nhà nước dùng tiền thuế để phát triển các ngành sản xuất độc quyền nhà nước, tuy nhiên phần lớn để làm động lực cho các thành phần kinh tế khác phát triển, các nhà nước dùng tiền thuế tài trợ cho các dự án kinh tế có mục tiêu để thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia theo định hướng của mình.
Thời kỳ phát triển nhà nước phúc lợi: Sau khi ổn định các nhiệm vụ công cộng khác, nhiều nhà nước đứng ra tổ chức các dịch vụ công cộng để gia tăng phúc lợi cho cộng đồng, thông qua việc huy động tiền thuế. Tuy nhiên, hiệu quả của các dịch vụ công vẫn là một vấn đề cần lưu tâm. Các quốc gia phát triển có mức huy động cao, có khi lên đến 35% song do nhờ mở rộng dịch vụ công đến nhiều lĩnh vực khác nhau để phục vụ miễn phí cho cộng đồng, vì vậy cũng rất ít khi bị kêu ca về gánh nặng thuế.
Có thể nói bản chất của một nhà nước không thể hiện ra trong các tôn chỉ nhà nước đó đưa ra, mà nó thể hiện rất cụ thể qua việc sử dụng tiền thuế của nhà nước đó trong việc điều hành đất nước. Việc đánh giá một nhà nước có thật sự do dân, vì dân hay không, chỉ có thể đoán chắc trong việc nhận định và đánh giá mục đích và hiệu quả của việc sử dụng tiền thuế mà người dân đóng góp.
1.3. Phí và Lệ phí
Theo nhiều quan điểm khác nhau và trong từng quốc gia khác nhau, khái niệm phí và lệ phí tồn tại với những nội hàm khác nhau. Trong bối cảnh thực tế của Việt Nam, phí và lệ phí vẫn còn là một nguồn thu bên cạnh thuế, góp phần không nhỏ vào việc đảm bảo hỗ trợ chi tiêu cho ngân sách nhà nước trong giai đoạn chuyển đổi. Tuy nhiên, khi nền kinh tế thị trường thực sự phát triển và đặc biệt khi đất nước hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới, quan điểm về phí và lệ phí sẽ có nhiều thay đổi. Để có sự phân định, phần phí và lệ phí này chỉ được hiểu trong khuôn khổ pháp luật Việt Nam.
1.3.1. Khái niệm Phí
Phí là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ được nhà nước cho phép thu theo danh mục quy định.
Theo Pháp lệnh Phí và Lệ phí được ban hành năm 2002, Phí bao gồm hai loại:
Phí thuộc ngân sách nhà nước và phí không thuộc ngân sách nhà nước
Phí thuộc ngân sách nhà nước là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức nhà nước cung cấp dịch vụ không mang tính kinh doanh được Nhà nước cho phép thu theo danh mục quy định.
Phí không thuộc ngân sách nhà nước là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả khi được một tổ chức, cá nhân khác cung cấp dịch vụ mang tính kinh doanh được Nhà nước cho phép thu theo danh mục quy định.
1.3.2. Khái niệm Lệ phí
Lệ phí là khoản tiền mà một tổ chức, cá nhân phải trả khi được cơ quan nhà nước hoặc một tổ chức được ủy quyền phục vụ công việc quản lý nhà nước theo danh mục cho phép quy định.
1.3.3. Đặc thù Phí và Lệ phí Việt Nam
Phí không thuộc ngân sách nhà nước là loại phí phổ biến ở tất cả các quốc gia trên thế giới. Thực chất chúng là giá của dịch vụ. Tuy nhiên, với nhiều quốc gia, như Việt Nam, khi nguồn thu thuế còn hạn hẹp, chưa đáp ứng đủ cho việc hoàn trả gián tiếp cho người nộp thuế thông qua tất cả các loại dịch vụ công cần thiết, Nhà nước phải tính đến việc thu ở người trực tiếp sử dụng dịch vụ công một khoản bổ sung để duy trì dịch vụ. Khoản bổ sung này không phải là giá của dịch vụ theo cơ chế thị trường, mà chỉ là một phần của nó, phần còn lại thông qua con đường hoàn trả gián tiếp tiền thuế từ ngân sách nhà nước. Mặt khác, để nâng cao ý thức của người dân trong việc sử dụng hiệu quả các dịch vụ công, nhiều nhà nước cũng triển khai thu phí thuộc ngân sách nhà nước với mức thu không đáng kể. Khi ngân sách nhà nước đã được bảo đảm đầy đủ thông qua nguồn huy động từ thuế, số lượng và mức thu các loại phí sẽ giảm dần, tiến đến chỉ còn một số loại phí và lệ phí thu trên các quan hệ có yếu tố nước ngoài, như là một sự bảo đảm cho thương hiệu dịch vụ công nội địa.
II. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA THUẾ
2.1. Khái niệm về thuế
Cho đến nay, trong giới các học giả và trên các sách báo kinh tế thế giới vẫn chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm thuế, bởi lẽ giác dộ nghiên cứu có nhiều khác biệt. Nhìn chung, các nhà kinh tế khi đưa ra khái niệm về thuế mới chỉ nhìn nhận từ những khía cạnh khác nhau của thuế mà mình muốn khai thác hoặc tìm hiểu, chưa phản ánh đầy đủ bản chất chung của phạm trù thuế. Chẳng hạn theo các nhà kinh điển thì thuế được quan niệm rất đơn giản: " Để duy trì quyền lực công cộng, cần phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước đó là thuế khoá...". Và với quan điểm này, thuế chỉ là sự đóng góp của công dân để duy trì quyền lực nhà nước. Cũng từ luận điểm này, Mác phát triển thêm rằng trong một nhà nước có giai cấp (một giai cấp giành được quyền thống trị) thì thuế thực ra là khoản đóng góp bắt buộc để duy trì quyền lực của giai cấp đó. Khi những giai cấp không phải là giai cấp cai trị, nghĩ rằng việc bắt buộc nộp thuế chỉ dùng để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp cai trị, thì họ sẽ không coi thuế là nghĩa vụ công dân và sẽ bằng nhiều cách để tránh thuế và trốn thuế. Quan điểm này đã hỗ trợ rất nhiều cho các nhà kinh tế có quan điểm xã hội trong việc củng cố lập trường đấu tranh giai cấp.
Bên cạnh đó, cũng có các quan điểm khác nhau về thuế, được nhìn nhận trên các bình diện khác. Trong cuốn từ điển kinh tế của hai tác giả người Anh Chrisopher Pass và Bryan Lowes, đứng trên giác độ đối tượng chịu thuế đã cho rằng : "Thuế là một biện pháp của chính phủ đánh trên thu nhập của cải và vốn nhận được của các cá nhân hay doanh nghiệp (thuế trực thu), trên việc chi tiêu về hàng hoá và dịch vụ (thuế gián thu) và trên tài sản".
Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn thiện được nêu lên trong cuốn sách "Economics" của hai nhà kinh tế Mỹ, dựa trên cơ sở đối giá như sau: "thuế là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc chuyển giao bằng hàng hoá, dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho chính phủ, mà trong sự trao đổi đó họ không nhận được trực tiếp hàng hoá, dịch vụ nào cả, khoản nộp đó không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật". Trong các quan điểm này, người ta chỉ nhìn nhận thuế trên giác độ các đối tượng nộp thuế và đối tượng chịu thuế, không nói đến việc sử dụng tiền thuế để làm gì, chỉ thể hiện việc đánh thuế như là một nghĩa vụ công dân của các doanh nghiệp và hộ gia đình với đất nước mà mình đang kinh doanh hoặc đang sinh sống. Các quan điểm này cũng chỉ phù hợp với giai đoạn phát triển của thuế trong thời đoạn lịch sử nhất định lúc đó.
Trên giác độ phân phối thu nhập, người ta định nghĩa: Thuế là hình thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành các quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước.
Trên giác độ người nộp thuế, thuế được coi là khoản đóng góp bắt buộc mà mỗi tổ chức, cá nhân phải có nghĩa vụ đóng góp cho nhà nước theo luật định để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ Nhà nước.
Trên giác độ kinh tế học, thuế là một biện pháp đặc biệt, theo đó, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình để chuyển một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công, nhằm thực hiện các chức năng kinh tế – xã hội của Nhà nước.
Ở nước ta, đến nay cũng chưa có một khái niệm thống nhất về thuế. Theo từ điển tiếng Việt - Trung tâm từ điển học (1998) thì thuế là khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp v.v buộc phải nộp cho nhà nước theo mức quy định.
Những khái niệm về thuế nêu trên mới nhấn mạnh một chiều theo quan niệm của từng góc độ khác nhau, nên chưa thật đầy đủ và chính xác được bản chất của thuế. Đến nay, tuy chưa có một định nghĩa về thuế thống nhất, nhưng các nhà kinh tế đều nhất trí cho rằng, để làm rõ được bản chất của thuế thì định nghĩa về thuế phải nêu bật được các khía cạnh sau đây:
- Nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa nhà nước với các pháp nhân và các thể nhân, không mang tính hoàn trả trực tiếp;
- Những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt- việc chuyển giao thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của nhà nước;
- Các các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã được pháp luật quy định.
- Và việc sử dụng tiền thuế phải dành cho mục đích chung.
Tuy nhiên, trong tiến trình phát triển xã hội, việc quy định thuế phải được sử dụng chung cũng là một vấn đề cần xem xét. Có những loại thuế được thu chỉ nhằm một mục đích định trước và trao cho một số đối tượng quy định.
Dù trải qua nhiều giai đoạn và được nhận định trên nhiều giác độ khác nhau, nhưng hiện nay một định nghĩa về thuế theo xu hướng cổ điển vẫn còn đang được áp dụng phổ biến, đặc biệt trong cơ chế kinh tế thị trường, điển hình là khái niệm về thuế của Gaston Jèze đưa ra trong Giáo trình Tài chính công. Dựa vào định nghĩa này và các yêu cầu nêu trên, có thể đưa ra một khái niệm tổng quát về thuế phù hợp với giai đoạn hiện nay như sau:
Thuế là một khoản nộp bằng tiền mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện theo luật đối với nhà nước; không mang tính chất đối khoản, không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế và dùng để trang trải cho các nhu cầu chi tiêu công cộng.
2.2. Đặc điểm của thuế
Qua phân tích nguồn gốc của sự ra đời của thuế và khái niệm chung về thuế nêu trên, có thể khẳng định rằng: Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng để hình thành nên quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng. Tuy nhiên, thuế khác với các công cụ tài chính khác như phí, lệ phí, tiền phạt, giá cả.v.v. Điều này thể hiện qua các đặc điểm cơ bản của thuế trong kinh tế thị trường như sau:
- Thuế là một khoản trích