Trong một thời gian dài, do nhận thức chưa đầy đủ về Chủ nghĩa xã hội và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một hệ thống các nước đã hình thành và hoạt động theo một cơ chế kinh tế , cơ chế quản lý tương ứng với nhận thức đó. Trong hoạt động thực tiễn , những cản ngại sau hàng chục năm tồn tại cơ chế đó, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách đích thực về Chủ nghĩa xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam đã điều chỉnh bằng công việc chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của nhà nước. Hiện nay có thể nói, nước ta đang trong giai đoạn quá độ chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta đương nhiên là một vấn đề rất có ý nghĩa cần được xem xét, nghiên cứu. Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển nên mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam, đất nước Việt Nam.
Với đề tài này tôi mong muốn chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về nền kinh tế thị trường, những xu hướng vận động và phát triển của nó, những bản chất và mâu thuẫn cơ bản có tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, của việc hình thành và xây dựng con người, xây dựng và phát triển xã hội. Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi phối được những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan nóng vội duy ý chí, hoặc những khuynh hướng cực đoan máy móc, sao chép nhập nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài vào.
16 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3750 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mâu thuẫn Biện chứng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mâu thuẫn Biện chứng trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
Phần I : lời nói đầu
Trong một thời gian dài, do nhận thức chưa đầy đủ về Chủ nghĩa xã hội và Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một hệ thống các nước đã hình thành và hoạt động theo một cơ chế kinh tế , cơ chế quản lý tương ứng với nhận thức đó. Trong hoạt động thực tiễn , những cản ngại sau hàng chục năm tồn tại cơ chế đó, đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách đích thực về Chủ nghĩa xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam đã điều chỉnh bằng công việc chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của nhà nước. Hiện nay có thể nói, nước ta đang trong giai đoạn quá độ chuyển tiếp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo hướng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, những đặc điểm của giai đoạn quá độ trong nền kinh tế nước ta đương nhiên là một vấn đề rất có ý nghĩa cần được xem xét, nghiên cứu. Vì mâu thuẫn là nguồn gốc, là động lực của sự phát triển nên mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn đề hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế Việt Nam, đất nước Việt Nam.
Với đề tài này tôi mong muốn chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về nền kinh tế thị trường, những xu hướng vận động và phát triển của nó, những bản chất và mâu thuẫn cơ bản có tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, của việc hình thành và xây dựng con người, xây dựng và phát triển xã hội. Nhận thức được những đặc điểm phức tạp của giai đoạn quá độ, chi phối được những đặc điểm đó, chúng ta sẽ tránh được những sai lầm chủ quan nóng vội duy ý chí, hoặc những khuynh hướng cực đoan máy móc, sao chép nhập nguyên bản kinh tế thị trường từ bên ngoài vào.
Phần II : nội dung
I, lý luận cơ bản về mâu thuẫn.
Quy luật mâu thuẫn là quy luật thống nhất và có đấu tranh của các mặt đối lập. Nó nói lên nguồn gốc động lực của sự vận động và phát triển của bản thân sự vật, hiện tượng.
1. Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan phổ biến.
Tất cả các sự vật hiện tượng tồn tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên trong của sự vật hiện tượng qui định. Mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất kỳ một lực lượng siêu tự nhiên nào, kể cả ý chí của con người.
Mâu thuẫn là một hiện tượng phổ biến vì nó có trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
Mâu thuẫn luôn luôn tồn tại cùng với quá trình tồn tại của con người. Mâu thuẫn hình thành trong mỗi sự vật không phải có một mà có thể có nhiều mâu thuẫn vì trong sự vật cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập, mâu thẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành. Mâu thuẫn luôn gắn liền với quá trình phát sinh phát triển và diệt vong của sự vật.
2. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
a. Thế nào là mặt đối lập.
Trong phép biện chứng duy vật, mặt đối lập là sự khái quát những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau tồn tại trong cùng một sự vật hiện tượng, tạo nên sự vật hiện tượng đó.
Các mặt đối lập có thể cùng tồn tại trong một sự vật ở cùng một thời điểm. Những mặt đối lập nào tồn tại thống nhất như một chỉnh thể nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ phủ định chuyển hóa lẫn nhau thì hai mặt đối lập như vậy mới tạo thành mâu thuẫn.
b. Sự thống nhất của các mặt đối lập.
Các mặt đối lập không phải chúng đứng bên cạnh nhau mà là nương tựa vào nhau tạo ra sự phù hợp cân bằng nhưng liên hệ phụ thuộc, qui định và ràng buộc lẫn nhau. Mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định sẽ không có sự tồn tại của sự vật.
Sự thống nhất do đặc điểm riêng vốn có của bản chất sự vật tạo nên.
Ví dụ: “Nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp và nền kinh tế thị trường là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của công cuộc đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam. Hai nền kinh tế hoàn toàn khác nhau về bản chất và những biểu hiện nhưng lại đóng vai trò hết sức quan trọng vì nó có sự thống nhất, sự thống nhất đó tạo nên quá trình đổi mớ kinh tế ở Việt Nam. Thiếu sự thống nhất này, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam không thể tồn tại với ý nghĩa là chính nó.”
Ví dụ: “Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì cùng với nó quan hệ sản xuất cũng phát triển, hai hình thức này chính là tiền đề cho sự phát triển của phương thức sản xuất”. Nhưng quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phải thỏa mãn một số yêu cầu:
Thứ nhất: đó phải là một khái niệm chung nhất được khái quát từ các mặt phù hợp khác nhau phản ánh được bản chất của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
Thứ hai: đó phải là một khái niệm “động”, quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn nằm trong sự vận động và phát triển.
Thứ ba: nó phải có ý nghĩa thực tiễn, phải có tác dụng định hướng chỉ dẫn cho việc xây dựng quan hệ sản xuất, sao cho những quan hệ sản xuất có khả năng phù hợp cao nhất với lực lượng sản xuất.
Thống nhất giữa các mặt đối lập chỉ là tương đối. Mỗi sự vật vừa là bản thân nó vừa là một cái khác, không nên xem các sự vật cứng đờ mà luôn đặt nó trong sự vận động phát triển.
c. Sự đấu tranh của các mặt đối lập.
Sự thống nhất của các mặt đối lập trong một sự vật không tách rời sự đấu tranh chuyển hóa giữa chúng. Sự đấu tranh chuyển hóa bài trừ phủ định lẫn nhau giữa các mặt trong thế giới khách quan thể hiện dưới nhiều mặt khác nhau.
Ví dụ: trong phương thức sản xuất trong xã hội có giai cấp đối kháng, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra rất gay gắt, quyết liệt. Chỉ thông qua cuộc cách mạng xã hội kể cả bạo lực mới có thể giải quyết được mâu thuẫn một cách căn bản.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập gồm nhiều giai đoạn, khi mới xuất hiện nó chưa hề thể hệ rõ sự xung khắc, đó là giai đoạn khác nhau. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn phát triển đến giai đoạn xung đột gay gắt nhất nó biến thành đối lập. Nếu hội đủ các điều kiện thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hóa lẫn nhau, sự vật cũ mất đi sự vật mới hình thành. Khi mâu thuẫn được giải quyết thì sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối lập mới. Các mặt đối lập lớn đấu tranh chuyển hóa tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn được giải quyết thì sự vật mới lại hình thành, cứ như vậy. Lê Nin khẳng định “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là cơ cấu tạm thời thoáng qua, tương đối của sự đấu tranh của các mặt đối lập hỗ trợ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự vận động phát triển là tuyệt đối.
d. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập.
Chuyển hóa của các mặt đối lập chính là lúc sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời ( mâu thuẫn đã được giải quyết ). Đó là một quá trình diễn biến phức tạp với rất nhiều hính thức. Nó không phải là sự hoàn đổi vị trí một cách giản đơn, máy móc như A chuyển hóa thành B và ngược lại, thông thường mâu thuẫn chuyển hóa theo hai phương thức.
Một là : mặt đối lập này chuyển hóa thành mặt đối lập kia nhưng ở trình độ cao hơn xét về phương diện chất của sự vật.
Ví dụ : “Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội phong kiến đấu tranh chuyển hóa lẫn nhau để hình thành nên quan hệ sản xuất mới là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và lực lượng sản xuất mới ở trình độ cao hơn”.
Hai là : cả hai mặt đối lập đấu tranh chuyển hóa để hình thành hai mặt đối lập mới hoàn toàn.
Ví dụ : “Nền kinh tế Việt Nam chuyển hóa từ kê hoạch hóa tập trung quan liêu sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” .
Từ những mâu thuẫn trên cho thấy, bất kỳ sự vật hiện tượng nào trong thế giới hiện thực cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau. Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của quá trình phát triển.
Ii, mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xhcn ở Việt Nam.
1. Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Cùng với việc nhận thức chưa đầy đủ về chủ nghĩa xã hội và nhà nước xã hội chủ nghĩa , hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa đã hình thành và hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Cùng với cơ chế này, nước ta đã giải quyết được hậu quả lớn do chiến tranh tàn khốc để lại đó là nạn đói hoành hành, một số thành tựu đáng kể nhưng xét lại trong cả một quá trình thì chính cơ chế ấy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước ta. “ Tính bao cấp của nhà nước đối với các hoạt động sản xuất lưu thông phân phối khá nặng nề, chế độ hoạch toán còn nặng nề về hình thức, lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích cá nhân. Người lao động - một động lực trực tiếp của hoạt động xã hội - chưa được quan tâm đứng mức ”. Vì thế sự vận động của nền kinh tế là chậm chạp kém năng động. Bên cạnh đó một số bộ phận trong tổ chức quản lý nhà nước rơi vào tình trạng bảo thủ trì trệ lâu dài, thậm chí hách dịch quan liêu đã gây ảnh hưởng lớn đến toàn thể xã hội và sự phát triển xã hội.
2. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa .
Kinh tế thị trường là một kiểu quan hệ kinh tế xã hội trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị trường. Nền kinh tế thị trường ở nước ta dù mới hình thành nhưng cũng dạt dược một số thành tựu đáng kể, nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Nền kinh tế thị trường đang trong những bước đầu chập chững và được điều tiết một cách có ý thức theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Song nó có tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội, văn hóa, tạo ra ở nước ta những quan niệm về thị trường không thuần khiết. Nền kinh tế thị trường bị khúc xạ theo nhiều chiều hướng.
Nguyên nhân của tình hình trên là có sự thay đổi về các quan hệ sở hữu. các hình thức sở hữu có sự vận hành không đồng bộ, đôi khi còn có những mâu thuẫn. Trong quan niệm của chúng ta hiện nay về CNXH đã chứa đựng những tư tưởng mới về qui luật của sự phù hợp khách quan giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Cái có ý nghĩa quyết định là trình độ của lực lượng sản xuất. Do vậy trong sự phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, sự tồn tại của các thành phần sở hữu đa dạng là có cơ sở. Vai trò của nhà nước và nền kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đóng vai trò quan trọng. Nhà nước ngoài việc trực tiếp quyết định những vấn đề của bản thân nền kinh tế mà còn đóng vai trò là nhân vật trung gian giữa các vấn đề kinh tế và xã hội .
ở nước ta, nhà nước và kinh tế nhà nước còn có nhiều vấn đề cần phải được tháo gỡ đề có thể đảm đương được trọng trách to lớn của mình. “ Thực tế, bộ máy quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế còn khá cồng kềnh và kém hiệu quả. Hầu hết các doanh nghiệp kinh tế nhà nước hoạt động kém năng động và quá ỷ lại nhà nước. Một số trường hợp còn vô tình hoặc cố ý bỏ rơi trận địa mà mình chiếm lĩnh tiếp tay cho những phần tử tham nhũng tiêu cực ”.
Xu hướng vận động của nền kinh tế thị trường nước ta là: “ Tiếp tục đổi mới và hoạt động có hiệu quả của kinh tế nhà nước để kinh tế nhà nước thực sự giữ vai trò chủ đạo, làm đòn bẩy thúc đẩy và điều chỉnh các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế ”. Chúng ta chưa thực sự tạo ra được môi trường an toàn cho sản xuất kinh doanh. Cơ sở pháp lý của các hoạt động kinh tế còn nhiều điều bất cập. Các hoạt động tài chính ngân hàng, phân cấp quản lý... còn nhiều điều bất hợp lý. Do vậy trong một số vụ án kinh tế vừa là thủ phạm, vừa là nạn nhân của kinh tế thị trường. tính chất không rõ ràng, thiếu xác định trên tất cả các phương diện kinh tế xã hội là điều phổ biến, đặc trưng cho các quan hệ trong nền kinh tế nước ta.
Cơ chế thị trường với các qui luật khách quan là cơ chế tự phát tự nhiên và nằm xa chi phối của con người hơn so với cơ chế hành chính bao cấp. Đó là đặc trưng của kinh tế thị trường. Mỗi hành trang có ý nghĩa mà công cuộc đổi mới trang bị cho chúng ta, sản xuất hàng hóa cùng với nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường hiện đã được chúng ta hiểu là không đối lập với CNXH. Với tính cách là văn minh nhân loại, một cơ hội để các nước cộng đồng mở cửa, tiếp xúc với bên ngoài, kinh tế thị trường rõ ràng là cái khách quan và tất yếu đối với công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam .
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam trong quá trình hình thành và xây dựng đã phát sinh ra nhiều mâu thuẫn. Do có thế mà mẫu thuẫn thúc đẩy nền kinh tế phát triển hoặc kìm hãm sự phát triển. Nền kinh tế thị trường có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Và đó là một đường lối đổi mới đúng đắn của đảng nhà nước ta, nhưng bên cạnh đó còn tồn tại nhiều bất cập mà nhà nước ta chưa có giải pháp hữu hiệu để hạn chế và ngăn chặn kịp thời.
a. Mâu thuẫn giữa chính nền kinh tế thị trường với những thành quả của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp.
Thực chất nền kinh tế nước ta vẫn đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đã có những yếu tố của thị trường hiện đại xuất hiện trong nền kinh tế nước ta “Tham gia buôn bán với nhiều nền kinh tế phát triển, nhập khối ASEAN, khu vực mậu dịch tự do AFTA....”, nhữngtính chất quá độ của nền kinh tế đang tiến tới cơ chế thị trường vẫn còn khá rõ. Nếu đẩy nền kinh tế nước ta có sở hữu tương đói với hai thành phần (Quốc doanh và Tập thể), thì hiện nay nền kinh tế đã đa dạng hơn về thành phần kinh tế và do đó cũng đa dạng hơn về hình thức sở hữu. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo đôi khi cũng chưa thoát ra khỏi những biểu hiện có tính chất hình thức của cơ chế cũ để trở nên có hiệu quả hơn, thực chất hơn.
b. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, vấn đề lực lượng sản xuất - quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất là yếu tố động luôn luôn thay đổi. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất cũng không còn phù hợp nữa, trở thành yếu tố kìm hãm lực lượng sản xuất. Để mở đường cho lực lượng sản xuất cần phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó là qui luật kinh tế chung cho sự phát triển xã hội.
Quá trình mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất tiên tiến với quan hệ sản xuất lạc hậu kìm hãm nó diễn ra gay gắt, quyết liệt và cần được giải quyết. Nhưng giải quyết nó bằng cách nào ? đó chính là các cuộc cách mạng xã hội. Cuộc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta là một ví dụ. “Khi một mục tiêu, một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng, thể hiện rõ tính chất cách mạng của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là phải phấn đấu xây dựng nước ta trở thành quốc gia công nghiệp hóa, hiện đại hóa, dân giầu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”. Đó là chủ trương vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học. “Không thể ăn đói mặc rách với cái cuốc trên vai công thêm tấm lòng cộng sản để kiến thiết chủ nghĩa xã hội, chuyển sang kinh tế thị trường”. Khẳng định cái mới đúng đắn, tự bản thân nó đã bao hàm ý phủ định, gạt bỏ quan niệm cũ sai lầm về điều kiện và cách thức xây dựng CNXH ở nước ta. Trước đây, chúng ta tỏ ra thiếu quan tâm đúng mức đến vai trò của trí tuệ, khoa học, việc tạo lập cơ sở kinh tế, vật chất của CNXH. Do đó đã dẫn đến hậu quả: khoa học kém phát triển hay không có điều kiện, môi trường để phát triển, đất nước không thoát khỏi nền sản xuất nhỏ nông nghiệp lạc hậu.
c. Mâu thuẫn giữa các hình thức sở hữu trước đây và trong kinh tế thị trường.
- Sở hữu nhà nước và sở hữu toàn dân:
Trong thời kỳ bao cấp trước đây thường đồng nhất sở hữu nhà nước với sở hữu toàn dân. Do nhầm lẫn như vậy mà trong một thời gian khá dài người ta thường bỏ quên hình thức sở hữu nhà nước, chỉ quan tâm đặc biệt tới sở hữu toàn dân và tập thể , cũng bởi sở hữu toàn dân được gắn kết với sự phát triển của khu vực kinh tế quốc doanh. Vì vậy mà chúng ta đã ra sức quốc doanh hóa nền kinh tế với niềm tin cho rằng chỉ có như vậy mới có CNXH nhiều hơn. Với quan niệm đó, sở hữu toàn dân đã trở thành thứ sở hữu không phải của một chủ sở hữu cụ thể nào.
- Sở hữu tập thể :
Trước đây chủ yếu tồn tại dưới hình thức hợp tác xã với nội dung: cả giá trị và giá trị sử dụng của đối tượng sở hữu là của chung. Các xã viên là chủ sở hữu. Quyền mua bán hoặc chuyển nhượng tư liệu sản xuất trong sản xuất, lưu thông diễn ra phức tạp. Quyền của các tập thể sản xuất rất hạn chế, song đôi khi lại có tình trạng lạm quyền. Sự không xác định, sự nhập nhằng với quyền sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân trá hình cũng là hiện tượng phổ biến. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế thị trường cần xác định rõ quyền mua bán và quyền chuyển nhượng tư liệu sản xuất đối với tập thể sản xuất kinh doanh. Chỉ có như vậy sở hữu tập thể mới có thể trở thành một hình thức sở hữu có hiệu quả.
Hợp tác xã là nhu cầu thiết thực của kinh tế hộ gia đình, của nền sản xuất hàng hóa. Khi lực lượng sản xuất trong nông nghiệp và công nghiệp nhỏ phát triển tới một trình độ nhất định, nó sẽ thúc đẩy quá trình hợp tác.Trong cơ chế thị trường, hợp tác xã được tổ chức trên sơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần. Mỗi xã viên có quyền như nhau đối với công việc chung.
d. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế.
Cùng với các hình thức sở hữu trong quá trình đổi mới, nước ta có năm thành phần kinh tế:
- Kinh tế quốc doanh: là các tổ chức kinh tế chịu sự quản lý điều hành trực tiếp của nhà nước.
- Kinh tế Tư bản nhà nước.
- Kinh tế Tư bản tư nhân.
- Kinh tế tập thể.
- Kinh tế hộ gia đình.
Mỗi tổ chức kinh tế, thành phần kinh tế có mục đích riêng, lợi ích riêng, vì thế mà trong quá trong quá trình hoạt động không tránh khỏi những mâu thuẫn. Đó là những mâu thuẫn giữu các tổ chức kinh tế với người lao động, mâu thuẫn với nhà nước nhân dân và các tổ chức kinh tế với nhau.
Những mâu thuẫn đó được thể hiện:
- Vì lợi ích kinh tế mà mỗi tổ chức kinh tế có thể vi phạm pháp luật, chính sách kinh tế như trốn thuế, buôn lậu, làm hàng giả, làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Vì lợi ích mà mỗi tổ chức kinh tế có thể bất chấp tất cả các hành động sai trái, không quan tâm đến chất lượng hàng hóa như thế nào mà chỉ quan tâm đến lợi ích của tổ chức mình, riêng tổ chức mình. Đặc biệt là trong thành phần kinh tế có sự tham gia của nhà nước, của quyền lực nhà nước, đó là kinh tế quốc doanh và kinh tế tư bản tư nhân. ở đây sẽ có sự lạm dụng chức quyền mà vơ vét cho cá nhân, hiện tượng tham nhũng, bất công xảy ra là điều khó tránh.
- Vì cạnh tranh trên thị trường mà các tổ chức kinh tế làm hại lẫn nhau.
- Không đảm bảo các điều kiện lao động theo tiêu chuẩn đối với người lao động trong cơ sở mình.
ở các thành phần kinh tế không thể tránh khỏi sự thuê mướn nhân công, thuê mướn lao động. Và ở đây xuất hiện những mâu thuẫn: giữa lợi ích của nhà kinh doanh với lợi ích của người lao động. Nếu không giải quyết tốt mâu thuẫn này sẽ xảy ra trường hợp: hoặc là lợi ích của nhà kinh doanh hoặc là lợi ích của người lao động bị vi phạm. Điều này có tác động tiêu cực đến nền kinh tế, nó không chỉ là lợi ích của nhà kinh doanh hay người lao động mà lợi ích của nhà nước, của nhân dân cũng không thực hiện được. Vì vậy phải biết kết hợp hài hoà các lợi ích của người lao động, của nhà kinh doanh, của nhà nước. Không được xem nhẹ lợi ích này hơn lợi ích kia.
Như vậy mâu thuẫn ở đây chính là mâu thuẫn giữa nền kinh tế thị trường trong giai đoạn kinh tế nước ta hiện nay với tính chất của Chủ nghĩa xã hội, của mục tiêu của Đảng ta đề ra, mục tiêu “ Dân giàu, nước mạnh, xã hội c