Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank)

Trong thời gian vừa qua, nước ta nỗ lực để được gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới – WTO. Trong sự cố gắng, nỗ lực đó có sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Khu vực kinh tế này không những đóng góp cho nền kinh tế quốc dân hàng trăm tỷ đồng thu nhập mỗi năm, tạo ra việc làm cho hàng nghìn lao động thất nghiệp mà còn làm cho nền kinh tế linh hoạt hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước. Phát triển các DNVVN là một chiến lược vô cùng quan trọng với nhiều nước không chỉ riêng ở Việt Nam. Xuất phát từ tình hình này, các NHTM ở Việt Nam nhận định các DNVVN là thị trường đầy hứa hẹn. Hầu hết các ngân hàng đều mở rộng cho vay đối với các DNVVN. Cùng với xu hướng phát triển chung, VPBank đã và đang mở rộng cho vay đối với DNVVN. Từ thực tế trên, em quyết định lựa chọn đề tài là: “Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank)”. Chuyên đề sẽ đánh giá tổng quan về vấn đề mở rộng cho vay DNVVN, qua đó sẽ đưa ra các vấn đề và giải pháp nhằm mở rộng cho vay DNVVN tại các NHTM nói chung và VPBank nói riêng. Chuyên đề có những nội dung chính sau: Chương 1: Tổng quan chung về mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank) Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank).

doc69 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3002 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong thời gian vừa qua, nước ta nỗ lực để được gia nhập vào Tổ chức thương mại thế giới – WTO. Trong sự cố gắng, nỗ lực đó có sự đóng góp quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN). Khu vực kinh tế này không những đóng góp cho nền kinh tế quốc dân hàng trăm tỷ đồng thu nhập mỗi năm, tạo ra việc làm cho hàng nghìn lao động thất nghiệp mà còn làm cho nền kinh tế linh hoạt hơn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước. Phát triển các DNVVN là một chiến lược vô cùng quan trọng với nhiều nước không chỉ riêng ở Việt Nam. Xuất phát từ tình hình này, các NHTM ở Việt Nam nhận định các DNVVN là thị trường đầy hứa hẹn. Hầu hết các ngân hàng đều mở rộng cho vay đối với các DNVVN. Cùng với xu hướng phát triển chung, VPBank đã và đang mở rộng cho vay đối với DNVVN. Từ thực tế trên, em quyết định lựa chọn đề tài là: “Mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank)”. Chuyên đề sẽ đánh giá tổng quan về vấn đề mở rộng cho vay DNVVN, qua đó sẽ đưa ra các vấn đề và giải pháp nhằm mở rộng cho vay DNVVN tại các NHTM nói chung và VPBank nói riêng. Chuyên đề có những nội dung chính sau: Chương 1: Tổng quan chung về mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank) Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBank). CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CHUNG VỀ MỞ RỘNG CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại Khái niệm và các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại Khái niệm Ngân hàng thương mại Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề ở chỗ các yếu tố trên đang không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính – bao gồm cả các công ty chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Do đó, cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện các loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp. Trong đó, “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Ngân hàng là khái niệm nói chung, trong đó ngân hàng thương mại (NHTM) là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng, đó là huy động vốn và sử dụng vốn. Và NHTM chính là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, tập trung vốn từ nơi nhàn rỗi để bơm vào nơi khan hiếm. Khoản 1, điều 1 Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ban hành ngày 23/05/1990 quy định : "Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Trong tiến trình phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế hiện nay, các NHTM càng thể hiện rõ tầm quan trọng trong quá trình nâng cao hiệu quả và thúc đẩy phát triển nền kinh tế ở mỗi quốc gia. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại Hoạt động huy động vốn: NHTM được huy động vốn dưới các hình thức: Nhận tiền gửi, tiền vay và phát hành giấy tờ có giá. Nhận tiền gửi: Hình thức huy động vốn phổ biến nhất của NHTM đó là nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi có kỳ hạn, không kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. Vay các tổ chức tín dụng khác: NHTM được phép vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của tổ chức tín dụng nước ngoài. Các NHTM có thể vay và cho vay lẫn nhau thông qua thị trường liên ngân hàng với lãi suất liên ngân hàng. Và các ngân hàng cũng có thể cho vay trực tiếp lẫn nhau thông qua mối quan hệ giữa các ngân hàng. Quá trình vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác phải đảm bảo các ngân hàng hoạt động hợp pháp, có hợp đồng tín dụng vay vốn và vốn vay phảo có thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của NHTƯ. Vay vốn ngắn hạn của NHTƯ: Các NHTM có thể giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của mình bằng cách vay ngắn hạn từ NHTW với các hình thức vay như tái cấp vốn; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu, các giấy tờ có giá ngắn hạn; vay có đảm bảo bằng thế chấp hoặc cầm cố,… Phát hành giấy tờ có giá: NHTM phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được Thống đốc NHNN chấp thuận. Ngoài ra còn có một số hình thức huy động vốn khác theo quy định của NHTƯ. Hoạt động tín dụng Tín dụng là quan hệ vay mượn, bao gồm cả việc đi vay và cho vay. Tuy nhiên, khi gắn tín dụng với một chủ thể nhất định như ngân hàng ( hoặc các tổ chức trung gian khác) – ví dụ như tín dụng ngân hàng - thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho vay. Cho vay là hoạt động quan trọng nhất, chiếm phần lớn tổng giá trị tài sản của ngân hàng và cũng là nguồn thu nhập lớn nhất của ngân hàng (chiếm 1/2 đến 2/3 thu nhập). Nhưng đây lại là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất cho ngân hàng. Các khoản vay xấu, các khoản nợ khó đòi là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng khó khăn về tài chính của các ngân hàng. Sau đây sẽ là một số cách phân loại cho vay theo yêu cầu của khách hàng hoặc mục đích của ngân hàng: Căn cứ vào mục đích cho vay Cho vay bất động sản: cho vay nhằm mục đích mua sắm, xây dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Cho vay tiêu dùng: là loại cho vay đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua xe, đi du lịch,… Cho vay công nghiệp và thương mại: nhằm bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ trong ngắn hạn. Cho vay nông nghiệp: giúp cho người nông dân có vốn để trang trải các chi phí liên quan đến quá trình sản xuất, chăn nuôi như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, nhiên liệu, lao động… Căn cứ vào thời hạn cho vay Cho vay ngắn hạn: thời hạn cho vay dưới 12 tháng, thường được sử dụng đối với doanh nghiệp đang cần vốn để bù đắp thiết hụt vốn lưu động và đáp ứng các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Cho vay trung hạn: thời hạn cho vay từ 12 tháng đến 60 tháng, thường được dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến, đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Cho vay dài hạn: thời hạn cho vay là trên 5 năm, tối đa có thể lên đến 20 năm hay 30 năm. Cho vay dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng Cho vay không có đảm bảo: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, việc cho vay chỉ dựa vào mức độ tín nhiệm khách hàng. Cho vay có đảm bảo: là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo như thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ ba. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Cho vay là hoạt động không thể thiếu của các ngân hàng thương mại. Hoạt động cho vay của các ngân hàng có mối liên hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế. Thông qua các khoản cho vay, ngân hàng đã góp phần hỗ trợ các cá nhân, các doanh nghiệp nâng cao khả năng sản xuất, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhằm đảm bảo chất lượng và hiệu quả trong hoạt động cho vay, các ngân hàng luôn có các biện pháp nhằm đảm bảo cho khoản tiền vay như kiểm tra sát đối với tài sản bảo đảm cho tiền vay, có bộ phận phân tích và thẩm định tài sản bảo đảm công bằng và khách quan, nhằm đánh giá đúng nhất giá trị của tài sản bảo đảm cũng như dễ dàng cho việc theo dõi trong quá trình cho vay. Nguyên tắc cho vay: Hoạt động cho vay của các ngân hàng đều phải tuân theo các nguyên tắc cho vay nhất định. Vay vốn là nhu cầu tự nguyện của khách hàng và tạo điều kiện cho ngân hàng cấp tín dụng và thu lãi. Có hai nguyên tắc cho vay cơ bản đó là sử dụng vốn đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng và hoàn trả nợ gốc, lãi vay đúng hạn. Tuân thủ nguyên tắc cho vay là biện pháp tốt giúp ngân hàng giảm thiểu được rủi ro, nâng cao khả năng an toàn trong quá trình cho vay. Đây cũng là yêu cầu hàng đầu của mỗi NHTM. Các hoạt động dịch vụ: NHTM được phép cung ứng các phương tiện thanh toán, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế theo quy định của NHNN, cung ứng các dịch vụ thu hộ, chi hộ, tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia vào hệ thống thanh toán liên ngân hàng,… Các hoạt động khác Bên cạnh các hoạt động chính được nêu ở trên, các NHTM còn thực hiện một số các hoạt động khác như bảo lãnh; chiết khấu thương phiếu, giấy tờ có giá; thuê, mua tài chính và nhận ủy thác. Hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ: Có rất nhiều khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) và ở mỗi nước khác nhau, khái niệm đó lại được thay đổi rất nhiều. Căn cứ theo nghị định 90/2001/NĐ-CP, DNVVN ở Việt Nam được hiểu là “cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Theo định nghĩa này doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu là: - Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước. - Các công ty cổ phần, trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp tư nhân đăng ký hoạt động theo Luật doanh nghiệp. - Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã. Theo định nghĩa này thì ở Việt Nam số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới 93% tổng số doanh nghiệp hiện đang hoạt động. Việc xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ như trên là phù hợp với thực tế khách quan của nước ta, một nước với nguồn vốn có hạn nhưng nguồn lao động dồi dào. Việc xác định này nhằm đưa ra những chính sách khuyến khích các doanh nghiệp này phát triển, để đáp ứng được yêu cầu cấp bách của xã hội là đảm bảo công ăn việc làm, nâng cao mức sống của đại đa số nhân dân lao động và dần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng đói nghèo. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ DNVVN ngoài mang nhưng đặc điểm chung của một doanh nghiệp: chức năng sản xuất kinh doanh, tối đa hóa lợi nhuận là mục tiêu kinh tế cơ bản bên cạnh các mục tiêu xã hội, phải chấp nhận sự cạnh tranh để tồn tại và phát triển còn mang những đặc trưng riêng: - Lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ Với ưu thế quy mô vốn nhỏ, cơ sở vật chất không lớn, cơ cấu bộ máy quản lý gọn nhẹ, doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng nhanh chóng chuyển hướng kinh doanh và chuyển đổi mặt hàng, tăng giảm lao động một cách dễ dàng, có thể nhanh chóng chuyển đổi mở rộng hoặc thu hẹp quy mô sản xuất. Đồng thời cùng với lợi thế này mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất năng động, linh hoạt, thích ứng kịp thời với những biến động của thị trường, có khả năng tiếp cận và đáp ứng tốt hơn các doanh nghiệp có quy mô lớn ở mảng thị trường nhỏ lẻ mang tính khu vực. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập với lượng vốn đầu tư ban đầu ít, hoạt động có hiệu quả với chi phí cố định thấp, thu hồi vốn nhanh. Đa phần các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều có thể dễ dàng bắt đầu hoạt động ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh với một số vốn cũng như lao động nhất định. Trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ việc quản lý và điều hành rất gọn nhẹ, linh hoạt. Công tác điều hành tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ mang tính trực tiếp, quan hệ giữa những người lao động và người quản lý khá chặt chẽ, gắn bó, tạo ra môi trường làm việc tốt. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất dễ dàng đổi mới thiết bị công nghệ. Khác với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ với yêu cầu vốn bổ sung không nhiều và giảm được sự thiệt hại trong việc thay đổi tư bản cố định khi có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng và nhanh chóng trong việc đổi mới thiết bị công nghệ khi cần thiết. Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây nên khủng hoảng kinh tế và xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền. Doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo điều kiện duy trì tự do cạnh tranh. Có rất nhiều các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực cung cấp các mặt hàng thiết yếu nên thường không có tình trạng độc quyền. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng và sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh, không trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có lợi thế trong việc theo sát nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng, từ đó sáng tạo ra nhiều hàng hóa và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường. - Hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ Bên cạnh những lợi thế có được như đã nêu ở trên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn tồn tại những hạn chế đối với sự phát triển, xuất phát từ chính những đặc điểm của loại hình doanh nghiệp này, cụ thể: Nguồn vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu từ tài sản của chủ doanh nghiệp và các thành viên góp vốn, mà lượng vốn này thường nhỏ và phân tán dẫn đến vốn đầu tư cho doanh nghiệp bị hạn chế nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp khó khăn trong giai đoạn mới hình thành. Các TCTD thường e ngại khi họ có nhu cầu vay vốn vì họ chưa tạo lập được uy tín trong kinh doanh và tạo được niềm tin trong trả nợ. Cơ sở vật chất kỹ thuật và thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường manh mún và lạc hậu. Do vậy năng suất lao động, sản phẩm và chất lượng sản phẩm thấp làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng rất khó tiếp cận với thị trường công nghệ, máy móc và thiết bị hiện đại. Rất ít doanh nghiệp vừa và nhỏ được trang bị công nghệ hiện đại, trừ khi liên doanh với nước ngoài. Trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và người lao động của doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa cao. Một số chủ doanh nghiệp không có kiến thức quản lý, trình độ chuyên môn thấp, không đủ khả năng xây dựng được chiến lược phát triển cho doanh nghiệp trong trung hạn và dài hạn. Đồng thời đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay được thành lập với các thành viên là người trong gia đình, họ hàng nên tính chuyên nghiệp trong quản lý và trong sản xuất kinh doanh là chưa cao. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu đội ngũ lao động có trình độ tay nghề, có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Một trong những khó khăn không nhỏ nữa của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm. Với đặc thù của nền kinh tế thị trường là cá lớn nuốt cá bé dẫn đến cạnh tranh trên thị trường là vô cùng khốc liệt. Cộng với sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh nghiệp do sự độc quyền nhà nước của một số tập đoàn lớn và do sự vi phạm bản quyền sở hữutrí tuệ và quyền sở hữu công nghiệp. Do vậy thị trường của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là nhỏ bé và không ổn định. Do quy mô nhỏ, nguồn lực hạn chế và khó khăn trong việc tiếp cận nguồn thông tin thị trường về sản phẩm và đối thủ cạnh tranh nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ thiếu sức phòng, tránh rủi ro, dễ rơi vào tình trạng phá sản. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa coi trọng đúng mức việc thiết lập một hệ thống sổ sách, báo cáo tài chính một cách rõ ràng và minh bạch. Khả năng lập các phương án sản xuất kinh doanh còn yếu, chưa tính toán một cách đầy đủ doanh thu, chi phí, lợi nhuận và đặc biệt là rủi ro thị trường. Do vậy độ chính xác và minh bạch về tình hình tài chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua sổ sách kế toán là thấp. Qua phân tích những ưu và nhược điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho chúng ta thấy vì sao hầu hết các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển đều có chiến lược phát triển và hỗ trợ các loại hình doanh nghiệp này. Và muốn phát triển được thì Chính phủ các nước cần đưa ra những chính sách, biện pháp hỗ trợ phù hợp. Bởi vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Khái niệm hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại Khái niệm cho vay DNVVN có thể hiểu một cách khái quát là hình thức cho vay, theo đó ngân hàng thương mại giao cho doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi. Khái niệm cho vay DNVVN là cơ sở trong việc phân loại các phương thức cho vay cũng như xác định đối tượng khách hàng vay vốn của NHTM. Các phương thức cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ của Ngân hàng thương mại Với đặc điểm là có quy mô vốn nhỏ và nhu cầu sử dụng vốn thường xuyên thì phương thức cho vay chủ yếu đối với các DNVVN là các phương thức cho vay ngắn hạn. DNVVN thường lựa chọn vay ở các ngân hàng có uy tín và quan hệ tốt với DN để thuận lợi, nhanh chóng hơn trong việc thực hiện các thủ tục cho vay và vay nhiều lần. Một số các phương thức cho vay ngắn hạn DNVVN thường được thực hiện: + Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương thức cho vay theo đó ngân hàng thỏa thuận cấp cho DNVVN hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời hạn nhất định mà ngân hàng và DN đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Căn cứ để cấp hạn mức tín dụng là kế hoạch tài chính của DN, trong đó dự báo chi tiết về tài sản và vốn của DN. Đây là phương thức cho vay thuận tiện cho các DN vay mượn thường xuyên và được ngân hàng tín nhiệm. Phương thức cho vay này có ưu điểm là thủ tục đơn giản, DN chủ động được nguồn vốn vay, tuy nhiên về phía ngân hàng dễ bị đọng vốn, đồng thời do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. + Cho vay luân chuyển: là phương thức cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Phương thức cho vay này cũng thường được áp dụng đối với DNVVN có nhu cầu vay vốn thường xuyên và được ngân hàng tín nhiệm. Thủ tục cho vay chỉ cần thực hiện một lần cho nhiều lần vay nên rất thuận tiện đối với các DN. Tuy nhiên nếu DN gặp khó khăn trong tiêu thụ hàng hóa thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng. Quy mô cho vay ngắn hạn của NHTM đối với các DN như sau: Bước 1: Xác định nhu cầu hàng hóa dự trữ bình quân trong kì Nhu cầu dự trữ hàng hóa = DS bán tính theo giá vốn trong kì Vòng quay hàng hóa dự trữ trong kì Vòng quay được tính dựa trên DS bán của kì trước = DS bán ra tính theo giá vốn kì trước Dự trữ hàng hóa bình quân kì trước Bước 2: Xác định nhu cầu vay vốn ngắn hạn Nhu cầu vay ngắn hạn NH = Nhu cầu hàng hóa dự trữ bình quân trong kì - Nguồn vốn chủ sở hữu, vay các TCTD khác tài trợ cho nhu cầu dự trữ hàng hóa bình quân Nếu doanh nghiệp hiện đang vay ngân hàng thì số tiền có thể cho vay thêm là: Số tiền có thể cho vay thêm = Nhu cầu vay ngắn hạn NH - Dư nợ đến thời điểm xin vay. Một số trường hợp ngân hàng không phân tích được phương án vay, ngân hàng quyết định
Luận văn liên quan