Sau 24 năm đổi mới (1986 - 2010), Việt Nam hôm nay đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong nhiều lĩnh vực: kinh tế, xã hội. Đặc biệt, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình đáng kinh ngạc, trong những năm gần đây,đối mặt với suy thoái kinh tế, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn ở mức khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Năm 2010, Việt Nam đã là nước thoát nghèo. Đời sống tinh thân và vật chất của người dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong quá trình nỗ lực phát triển không ngừng, chúng ta đã và đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của bên kia con dốc tăng trưởng: môi trường sống và làm việc bị ô nhiễm trầm trọng do việc xử lý chất thải công nghiệp chưa thỏa đáng, do đô thị hóa tăng nhanh không kèm theo các quy định chặt chẽ về bảo vệ môi trường; khoảng cách giàu nghèo ngày càng bị nới rộng,
Từ thực tế ấy, người ta tự hỏi: chẳng lẽ muốn có tăng trưởng thì buộc phải hủy hoại môi trưởng? Đã chấp nhận giàu nghèo phải chấp nhận cả phân hóa xã hội sâu sắc? Nếu không thì liệu có định hướng nào để giải quyết thực trạng đáng buồn hiện nay?
16 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3613 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế - Công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Sau 24 năm đổi mới (1986 - 2010), Việt Nam hôm nay đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong nhiều lĩnh vực: kinh tế, xã hội. Đặc biệt, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển mình đáng kinh ngạc, trong những năm gần đây,đối mặt với suy thoái kinh tế, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn ở mức khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Năm 2010, Việt Nam đã là nước thoát nghèo. Đời sống tinh thân và vật chất của người dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên, trong quá trình nỗ lực phát triển không ngừng, chúng ta đã và đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của bên kia con dốc tăng trưởng: môi trường sống và làm việc bị ô nhiễm trầm trọng do việc xử lý chất thải công nghiệp chưa thỏa đáng, do đô thị hóa tăng nhanh không kèm theo các quy định chặt chẽ về bảo vệ môi trường; khoảng cách giàu nghèo ngày càng bị nới rộng,…
Từ thực tế ấy, người ta tự hỏi: chẳng lẽ muốn có tăng trưởng thì buộc phải hủy hoại môi trưởng? Đã chấp nhận giàu nghèo phải chấp nhận cả phân hóa xã hội sâu sắc? Nếu không thì liệu có định hướng nào để giải quyết thực trạng đáng buồn hiện nay?
I. Khái niệm tăng trưởng và các chỉ tiêu đo lường:
1. Khái niệm:
Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về số lượng, chất lượng, tốc độ, quy mô sản lượng nền kinh tế trong một thời kì nhất định. Sự tăng trưởng được so sánh với thời gian gốc sẽ cho biết mức độ tăng trưởng. Đó là sự gia tăng về quy mô sản lượng nhanh hay chậm so với năm gốc.
2. Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng kinh tế:
Trên thế giới hiện nay người ta dựa vào mức gia tăng của tổng giá trị hàng hoá và của cải của xã hội bằng các đại lượng: Tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm quốc nội.
Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) là tổng giá trị tính bằng tiền của hàng hoá và dịch vụ mà một nước sản xuất ra từ các yếu tố của mình(dù la ở nước ngoài) trong một thời kì nhất định (thường là 1 năm).
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) là tổng giá trị tính bằng tiền của tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ sản xuất ra trong một nước (tính cả người nước ngoài) trong 1 thời kì (thường là 1 năm).
GNP và GDP là 2 thước đo tiện lợi nhất để đo lường tăng trưởng kinh tế của 1 nước biểu hiện thông qua giá cả. Vì vậy để tính đến yếu tố lạm phát người ta nhận định GDP và GNP danh nghĩa và GDP, GNP thực tế. GDP và GNP danh nghĩa được tính theo giá hiện hành của năm tính còn GDP và GNP thực được tính theo giá của năm gốc mức tăng trưởng danh nghĩa và mức tăng trưởng thực tế. Do đó ta phân biệt được chỉ số thực và chỉ số danh nghĩa của 2 chỉ tiêu này.
3. Thực trạng:
Kinh tế việt nam trong những năm gần đây có mức tăng trưởng khá cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới.mặc dù vừa qua kinh tế việt nam đã đương đầu với thử thách lớn nhưng vẩn đứng vững và tiếp tục tăng trưởng.
Bằng chứng là 6 tháng đầu năm 2010 tốc độ tăng trưởng ước đạt 6%.Chỉ số CIP tăng 4,78% mức tăng này thấp so với năm ngoái.
Dưới đây là biểu đồ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ 1997-2009:
(Số liệu GDP từ 1997 đến 2007 được lấy từ nguồn của Tổng cục Thống kê, E là con số ước tính)
Và một số chỉ tiêu chủ yếu 8 tháng đầu năm 2010 (tăng/giảm) so với cùng kỳ năm ngoái (%)
Giá trị sản xuất công nghiệp
+13.7
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
+26.1
Tổng kim ngạch xuất khẩu
+19.7
Tổng kim ngạch nhập khẩu
+24.6
Khách quốc tế tới Việt Nam
+35.3
Vốn đầu tư NSNN thực hiện so với kế hoạch năm
73.7
Chỉ số giá tiêu dùng 8 tháng đầu năm 2010 so với cùng kỳ năm 2009
+8.61
(Thông tin từ Tổng Cục Thống Kê ngày 30/8/2010)
II. Mối quan hệ giữa môi trường với tăng trưởng kinh tế xã hội:
Bước vào thế kỉ XXI, với sự tăng tốc của công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa, chúng ta đang phải đương đầu với thách thức lớn trên con đường phát triển đó là vấn đề về môi trường. Có thể nói môi trường tự nhiên mà chúng ta đang sống đã và đang bị suy thoái trầm trọng. Môi trường đô thị và các khu công nghiệp, nhất là các vùng phát triển kinh tế trọng điểm, đã bị ô nhiễm do chất thải các loại không được thu gom và xử lí kịp thời. Khí thải, nước thải, bụi, tiếng ồn, cộng với cơ sở hạ tầng quá yếu kém làm cho điều kiện vệ sinh, sức khỏe nhiều nơi bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Môi trường biển đã bắt đầu bị ô nhiễm, hàm lượng các chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, kim loại nặng, vi sinh, hóa chất nông nghiệp ở một số nơi đã vượt mức cho phép. Nguồn tài nguyên nước nhiều nơi đang bị cạn kiệt dần về lượng, suy giảm về chất. Việt Nam là nước thứ 2 trên thế giới chịu ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Khí hậu thay đổi theo chiều hướng nóng lên,các lỗ thủng của tầng ozon ngày càng lớn, mực nước biển dâng lên, mưa axit, mưa lớn, hạn hán đang ngày càng gia tăng, gây ra hàng loạt ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống ở nhiều vùng…
Tình trạng môi trường bị ô nhiễm và suy thoái như đã nêu trên là hậu quả của cả một thời gian dài trước đây chúng ta chưa quan tâm đầy đủ đến nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, trong quy hoạch phát triển đô thị và công nghiệp , trong quy hoạch phát triển các vùng kinh tế, trong xây dựng đầu tư các công trình cụ thể…vậy thì chúng ta sẽ xem xét vai trò của môi trường đối với nền kinh tế để thấy được tầm quan trọng và tại sao chúng ta lại phải đưa nhiệm vụ bảo vệ môi trường vào trong các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội.
1. Vai trò của môi trường đối với cuộc sống con người:
Môi trường có quan hệ trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Môi trường là nơi cung cấp nguyên nhiên vật liệu cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh, con người cần phải khai thác các loại tài nguyên thiên nhiên trong môi trường. Tài nguyên có trong thạch quyển, thủy quyển, khí quyển và trong sinh quyển. Điều không thể phủ nhận là mọi thứ trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta từ thức ăn, vải vóc, sách vở, đến các phương tiện vận tải (xe máy, tàu thuyền,…) hay các phương tiện giải trí (ti vi, điện thoại,..) , hoặc đều trực tiếp lấy từ môi trường thiên nhiên thông qua quá trình sản xuất. Ở Việt Nam, hàng trăm mỏ quặng đã được khai thác, làm nguyên liệu cho các ngành công nghiệp trong nước cũng như để phục vụ xuất khẩu đã giải quyết được không ít công ăn việc làm cho người lao động. Trên thế giới, những quốc gia có nguồn tài nguyên dồi dào và phong phú (nhất là các tài nguyên không được tái sinh) là một lợi thế rất lớn cho việc chủ động để phát triển và ổn định kinh tế. Ngày nay, khi cơ cấu đang chuyển dần từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ thì những nước giàu tài nguyên thiên nhiên, khí hậu hiền hòa lại là điểm đến hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài (tất nhiên ngoài ra còn các yếu tố khác nữa như chính trị, văn hóa,..)
Môi trường là nơi chứa đựng phế thải của mọi quá trình sản xuất và tiêu dùng. Mọi hoạt động của con người từ quá trình khai thác đến sản xuất và tiêu dùng đều thải chất thải ra môi trường.
Hai chức năng quan trọng đó của môi trường tuần hoàn với áp lực tốc độ gia tăng theo nhu cầu ngày càng cao của con người. Ta có thể tóm lược giản đơn bằng sơ đồ sau:
Nền kinh tế
Hàng hóa và dịch vụ
Vốn và lao động
Hệ thống kinh tế môi trường
Môi trường là nơi con người sinh sống do đó nó tạo ra những giá trị phúc lợi, giá trị cảnh quan thẩm mĩ. Con người chỉ tồn tại và phát triển trong môi trường thích hợp. Nhưng càng ngày thì môi trường sống càng bị ô nhiễm do các hoạt động của chính con người.
2. Tác động tiêu cực của tăng trưởng kinh tế đối với môi trường:
Phát triển lấy tăng trưởng kinh tế làm trọng tâm, không quan tâm tới môi trường đang đẩy xã hội loài người vào vòng xoáy của sự luẩn quẩn, trong đó việc tăng trưởng kinh tế- suy thoái tài nguyên môi trường - xói mòn văn hóa xã hội- tăng trưởng kinh tế… sẽ nhanh chóng tiến đến giai đoạn khủng hoảng của xã hội loài người.
Vòng luẩn quẩn - mô hình phát triển không bền vững
Môi trường ngày càng bị suy thoái nghiêm trọng, gây tổn thương cho con người đang sống ở hiện tại và cho cả thế hệ tương lai.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là để làm kinh tế và đạt bằng được các mục tiêu kinh tế, các mối liên quan về môi trường sinh thái đã bị bỏ qua, thiếu sự tôn trọng khi ứng dụng khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật. Đối với các nước đang phát triển, nguồn tài nguyên thiên nhiên có vai trò rất to lớn, đóng góp đáng kể vào tỉ lệ tăng trưởng kinh tế. Song, nếu khai thác nguồn tài nguyên này một cách quá mức thì sẽ làm cho hệ sinh thái bị mất cân đối nghiêm trọng, ô nhiễm môi trường gia tăng. Đó chính là hậu quả lớn nhất do tăng trưởng kinh tế mà không quan tâm đến việc bảo vệ môi trường gây ra. Dẫn đến tình trạng ngày càng nhìn thấy rõ giới hạn của sự tăng trưởng là việc chuyển đổi từ trạng thái con người bị thiên nhiên đe dọa và phải chống lại nó trước đây, sang trạng thái con người đang đe doạ thiên nhiên, xâm hại đến môi trường, trong khi môi trường là yếu tố không thể thiếu cho sự tồn tại và phát triển của chính con người.
Hiện nay chúng ta đang phải đương đầu với hàng loạt các vấn đề về môi trường như sự hủy hoại tầng ozone, biến đổi khí hậu, mưa acid, chặt phá rừng, mất đa dạng sinh học, xói mòn đất, sa mạc hóa, lũ lụt, chất thải nguy hiểm, thiếu nước sạch, khai thác quá mức các nguồn lực và các nguồn năng lượng không có khả năng tái tạo. Theo nhiều dự báo, nếu con người cứ khai thác như mức hiện nay, trong số các tài nguyên khoáng vật (tài nguyên không tái tạo được) có thể duy trì thì sắt được 173 năm, than được 150 năm, nhôm được 55 năm, đồng được 48 năm, vàng được 29 năm; các nguồn tài nguyên sinh vật, rừng rậm trong 170 năm nữa sẽ bị đốn hết, trong đó, mưa rừng nhiệt đới có thể hết sau 40 năm nữa. Các nhà khoa học chỉ ra rằng, hiện nay trên trái đất đã không còn tìm thấy một vùng đất nào hoàn toàn không bị ô nhiễm. Sự ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng không chỉ tạo ra khủng hoảng sinh thái mà còn tạo ra khủng hoảng sinh tồn của con người.
Cũng giống như một số nước đang phát triển khác, môi trường bị hủy diệt chính là mặt trái của tăng trưởng ở Việt Nam. Tình trạng ô nhiễm môi trường do tăng trưởng kinh tế gây ra ở Việt Nam là điều không tránh khỏi, đang là một trong những vấn đề bức xúc đòi hỏi phải giải quyết hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế quốc tế, tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong những năm qua rất ngoạn mục. Tuy nhiên, nhiều tổ chức quốc tế đã cảnh báo Việt Nam rằng, chúng ta không thể chạy theo các chỉ số tăng trưởng kinh tế mà bất chấp tình trạng môi trường sống đang bị hủy diệt quá nhanh.
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam rất ngoạn mục, nhưng cái giá phải trả là môi trường bị tàn phá nặng nề. Trong quá trình phát triển, nhất là trong thập kỷ vừa qua, các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, đã gặp phải nhiều vấn đề môi trường ngày càng nghiêm trọng, do các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải và sinh hoạt gây ra. Tại thành phố Hồ Chí Minh có 25 khu công nghiệp tập trung hoạt động với tổng số 611 nhà máy trên diện tích 2298 ha đất. Theo kết quả tính toán, hoạt động của các khu công nghiệp này cùng với 195 cơ sở trọng điểm bên ngoài khu công nghiệp, thì mỗi ngày thải vào hệ thống sông Sài Gòn - Đồng Nai tổng cộng 1.740.000 m3 nước thải công nghiệp, trong đó có khoảng 671 tấn cặn lơ lửng, 1.130 tấn BOD5 (làm giảm nhu cầu ôxy sinh hoá), 1789 tấn COD (làm giảm nhu cầu ôxy hoá học), 104 tấn Nitơ, 15 tấn photpho và kim loại nặng. Lượng chất thải này gây ô nhiễm cho môi trường nước của các con sông vốn là nguồn cung cấp nước sinh hoạt cho một nội địa bàn dân cư rộng lớn, làm ảnh hưởng đến các vi sinh vật và hệ sinh thái vốn là tác nhân thực hiện quá trình phân huỷ và làm sạch các dòng sông.Hiện nay vấn đề vi phạm môi trường của các doanh nghiệp tại Việt Nam đang diễn ra thường xuyên và có tính hệ thống. Việc hành xử coi nhẹ môi trường của các doanh nghiệp diễn ra rất phổ biến, coi thường luật pháp và gây ra nhiều bức xúc trong dư luận. Điển hình như việc công ty Huyndai Vinashin bị bắt quả tang chôn trộm 60 tấn chất thải nguy hại vào ngày 11/7/2008 tại Khánh Hòa. Đặc biệt là vụ xả chất thải chưa qua xử lý của công ty Vedan trong thời gian kéo dài lien tục trong 14 năm với mức độ vi phạm cực kỳ nghiêm trọng, bị cơ quan chức năng phát hiện vào ngày 13/09/2008. Hàng tháng công ty này có đến 105.600 m3 dịch thải sau lên men từ quá trình sản xuất không qua xử lý đã được xả trực tiếp ra sông Thị Vải gây thiệt hại rất lớn cho môi trường và cho những người dân sống dọc theo sông Thị Vải của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, tỉnh Đồng Nai và Thành Phố Hồ Chí Minh. Ngày 14/4/2010 công ty Tung Kuang tại Hải Dương bị công an môi trường phát hiện xả nước thải chưa qua xử lý ra môi trường với nhiều hóa chất độc hại như Chrome 6 (cao gấp 10 lần tiêu chuẩn cho phép), mangan, sắt... có hàm lượng vượt quy định. Ngày 20/8/2010 công an môi trường tỉnh Bình Dương bắt quả tang công ty Vinamit xả mỗi ngày 40m3 chất thải chưa qua xử lý…
Do năng lực kiểm soát môi trường của chúng ta không theo kịp sự phát triển là một trong những nguyên nhân khiến cho việc bảo vệ môi trường còn gặp nhiều khó khăn. Hàng rào pháp lý lỏng lẻo, những quy định xử phạt chưa thích đáng, còn nhẹ tay dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp coi thường việc bảo vệ môi trường. Trên thực tế hiện nay rất nhiều doanh nghiệp cố tình lách luật, khi không thể lách được họ mới miễn cưỡng chấp hành pháp luật. Với những cách hành xử như vậy của các doanh nghiệp đã làm cho tình trạng ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay rất đáng báo động.
Môi trường Việt Nam đang xuống cấp nghiêm trọng, chi phí bảo vệ môi trường có thể sẽ tiêu hết những thành quả có được từ tăng trưởng kinh tế nếu ta chỉ quan tâm đến phát triển kinh tế mà quên đi yếu tố môi trường.
Bản tổng kết môi trường toàn cầu do Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) mới công bố cho thấy Việt Nam có hai thành phố nằm trong danh sách 6 thành phố bị ô nhiễm không khí nghiêm trọng nhất trên thế giới. Theo tiến sĩ Hoàng Dương Tùng - Giám đốc Trung tâm Quan trắc và thông tin môi trường thuộc Cục Bảo vệ môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường), Việt Nam đối mặt với tất cả các vấn đề được nêu trong báo cáo. Về nồng độ bụi, hai thành phố lớn nhất Việt Nam là Thành Phố Hồ Chí Minh và Hà Nội chỉ đứng sau Bắc Kinh, Thượng Hải, New Delhi và Dhaka. Mối đe doạ tiềm tàng này chắc chắn sẽ cản trở quá trình phát triển hơn nữa của các thành phố này.
Theo một nghiên cứu về các chỉ số môi trường ổn định do Trường Đại học Yale (Mỹ) thực hiện trong năm 2006, Việt Nam đứng thứ hạng thấp nhất trong số các nước Đông Nam Á. Báo cáo về thay đổi khí hậu của Ngân hàng Thế giới trong năm 2007 cũng cho thấy Việt Nam là một trong hai quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng lớn nhất của tình trạng băng tan. Nếu nhiệt độ tiếp tục tăng, Việt Nam sẽ mất 17% sản lượng nông nghiệp. Các chuyên gia dự báo Khu kinh tế Dung Quất tại Việt Nam có thể thấp hơn mực nước biển.
Nếu chỉ quan tâm tới tăng trưởng mà coi nhẹ vấn đề bảo vệ môi trường như hiện nay rất có thể trong tương lai không xa tài nguyên thiên nhiên sẽ cạn kiệt, môi trường bị ô nhiễm nặng nề,khí hậu bị biến đổi đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của con người hôm nay và cả thế hệ mai sau. Do đó, chúng ta cần phải có những biện pháp chặt chẽ và cứng rắn để phát triển, tăng trường kinh tế nhưng vẫn bảo vệ và cải tạo được môi trường sống để phát triển kinh tế nhưng không đánh đổi bằng môi trường.
Thấy được tầm quan trọng của môi trường trong các chiến lược phát triển kinh tế đã đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ xem lại thước đo của tăng trưởng. Cần phải tính đến lợi ích của cộng đồng không được hưởng lợi hoặc hưởng lợi quá ít từ sự tăng trưởng, đến lợi ích của thế hệ mai sau, đến chi phí cần phải sử dụng để đền bù thiệt hại về môi trường hoặc để cải thiện môi trường. Việc tính toán chi phí môi trường gộp vào chi phí phát triển đã dẫn đến một khái niệm mới, đó là “phát triển bền vững”.
III. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội:
1. Khái niệm công bằng xã hội:
Công bằng xã hội là khái niệm mang tính chuẩn tắc phụ thuộc vào quan niệm khác nhau của mỗi giai cấp, mỗi quốc gia. Công bằng xã hội là sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, công bằng trong phân phối thu nhập, cơ hội phát triển và điều kiện thực hiện cơ hội. Như vậy, công bằng xã hội là một khái niệm rất rộng, bao gồm cả yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Những thước đo chủ yếu về công bằng xã hội bao gồm: Chỉ số phát triển con người (HDI); Đường cong Lorenz; Hệ số GINI; mức độ nghèo khổ; Mức độ thỏa mãn nhu cầu cơ bản của con người...
2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội:
Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa là tiền đề, vừa là điều kiện của nhau. Tăng trưởng kinh tế là điều kiện để thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế cao và bền vững là thước đo của tiến bộ và công bằng xã hội; tiến bộ, công bằng xã hội là nhân tố động lực để có tăng trưởng kinh tế cao và bền vững; tiến bộ, công bằng xã hội là biểu hiện của tăng trưởng kinh tế. Như vậy, tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội không phải là những yếu tố đối lập mà có quan hệ nhân quả với nhau.
Một số bài học kinh nghiệm trên thế giới cho thấy nếu thúc đẩy nền kinh tế tăng nhanh bằng mọi giá nhiều hậu quả trong trung và dài hạn là cái giá quá đắt cho mục tiêu này. Tăng trưởng nóng thường dẫn đến gia tăng khoảng cách giàu nghèo, nảy sinh nhiều mâu thuẫn giai cấp và đây chính là nguồn gốc của những cuộc cách mạng xã hội đòi hỏi sự công bằng, bình đẳng trong phân phối thu nhập… Việc dồn mọi nguồn lực xã hội cho tăng trưởng cũng có nghĩa là phải hy sinh một số mục tiêu xã hội, bỏ rơi người nghèo, phát sinh xu thế làm giàu của một số cá nhân và cuối cùng là nguy cơ khủng hoảng xã hội.
Mặc dù phát triển kinh tế làm nâng dần chất lượng cuộc sống của dân cư ở các quốc gia, nhưng người nghèo vẫn còn hiện diện khắp nơi. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội là mục tiêu "kép" của sự phát triển bền vững mà nhiều quốc gia trên thế giới đều mong muốn đạt tới. Làm sao để có được một nền kinh tế tăng trưởng nhưng phải gắn liền với công bằng xã hội không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia nữa mà nó mang tính toàn cầu. Nhưng trên thực tế, đây là bài toán khó mà không phải nước nào cũng có thể đưa ra lời giải thỏa đáng.
Giải quyết quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội luôn luôn là yêu cầu đặt ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế xã hội ở các nước. Bài toán đặt ra hiện nay đối với các quốc gia là thực hiện tăng trưởng kinh tế trước, sau đó mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội hay đặt tiến bộ và công bằng xã hội lên trước, sau đó mới chú trọng cho việc tăng trưởng kinh tế hay giải quyết hài hòa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội? Thực tế ở nhiều quốc gia cho thấy không thể thực hiện tiến bộ hay công bằng xã hội trước nếu như không bảo đảm nền kinh tế tăng trưởng cao, liên tục theo hướng phát triển bền vững. Mặt khác, nếu sự tăng trưởng kinh tế không bảo đảm thực hiện hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội thì sự tăng trưởng này cũng không có ý nghĩa. Những chính sách chỉ nhằm tăng trưởng kinh tế có thể làm gia tăng tình trạng bất bình đẳng. Mặt khác, những chính sách dựa trên ưu tiên mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội có thể dẫn đến triệt tiêu các động lực tăng trưởng kinh tế, kết cục cả mục tiêu xã hội và mục tiêu kinh tế đều không thực hiện được.
Như vậy, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội phải được tiến hành song song với nhau. Không thể chờ đợi đến khi kinh tế đạt đến trình độ phát triển cao mới thực hiện công bằng xã hội, càng không hy sinh công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần vì lợi ích của một thiểu số.
3. Thực tiễn quan hệ tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở Việt Nam:
Trong điều kiện khủng hoảng kinh tế toàn cầu, Việt Nam vẫn đảm bảo mức tăng trưởng
ổn định, luôn dương và khá cao. Đồng thời, thực hiện tốt mục tiêu đảm bảo công bằng xã hội.
Thế giới đánh giá rất cao những thành tựu gắn kết tă