Gia công quốc tế là một hình thức phân công lao động quốc tế đồng thời là một phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu được sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế. Ở Việt Nam, hoạt động gia công hàng hoá xuất khẩu đã có lâu và hiện nay đang phát triển một cách mạnh mẽ cả về quy mô và tốc độ, đem lại lợi ích về nhiều mặt cho đất nước.
Song do cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này chưa được thống nhất và đồng bộ dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh gia công gây thiệt hại cho nền kinh tế. Đồng thời những tồn tại vướng mắc trong khi thực hiện quản lý hoạt động gia công xuất khẩu đã gây nhiều cản trở cho sự phát triển của phương thức kinh doanh này ở nước ta, tạo sơ hở cho một số doanh nghiệp lợi dụng trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách, làm rối loạn thị trường nội địa,.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động gia công quốc tế ở Việt Nam và chế độ quản lý Nhà nước nhằm đưa ra những biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu là rất cần thiết.
Vì vậy trong thời gian thực tập ở Vụ Đầu tư - Bộ Thương mại, được nghiên cứu về tình hình gia công hàng xuất khẩu ở nước ta, cùng với những kiến thức đã được đào tạo ở trường em đã chọn đề tài:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG HÀNG XUẤT KHẨU”
86 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2675 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công hàng Xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Gia công quốc tế là một hình thức phân công lao động quốc tế đồng thời là một phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu được sử dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế. Ở Việt Nam, hoạt động gia công hàng hoá xuất khẩu đã có lâu và hiện nay đang phát triển một cách mạnh mẽ cả về quy mô và tốc độ, đem lại lợi ích về nhiều mặt cho đất nước.
Song do cơ chế, chính sách quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này chưa được thống nhất và đồng bộ dẫn đến sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp kinh doanh gia công gây thiệt hại cho nền kinh tế. Đồng thời những tồn tại vướng mắc trong khi thực hiện quản lý hoạt động gia công xuất khẩu đã gây nhiều cản trở cho sự phát triển của phương thức kinh doanh này ở nước ta, tạo sơ hở cho một số doanh nghiệp lợi dụng trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách, làm rối loạn thị trường nội địa,...
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động gia công quốc tế ở Việt Nam và chế độ quản lý Nhà nước nhằm đưa ra những biện pháp để nâng cao hiệu quả quản lý đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu là rất cần thiết.
Vì vậy trong thời gian thực tập ở Vụ Đầu tư - Bộ Thương mại, được nghiên cứu về tình hình gia công hàng xuất khẩu ở nước ta, cùng với những kiến thức đã được đào tạo ở trường em đã chọn đề tài:
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG HÀNG XUẤT KHẨU”
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu, phân tích vai trò của kinh doanh gia công trong buôn bán quốc tế cũng như kinh nghiệm tiến hành gia công hàng xuất khẩu của một số nước trên thế giới và khu vực để làm cơ sở lý luận cho việc tiếp tục phát triển phương thức kinh doanh này ở Việt Nam. Mặt khác đánh giá thực trạng hoạt động gia công hàng xuất khẩu ở nước ta và chế độ quản lý Nhà nước, đưa ra phương hướng chung và những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện chế độ, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động gia công quốc tế.
Đề tài chỉ nghiên cứu hoạt động gia công hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp ở trong nước, không nghiên cứu hoạt động thuê nước ngoài gia công hàng hoá cho Việt Nam. Và đề tài đi sâu nghiên cứu chế độ quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu ở tầm vĩ mô.
Bằng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn thông qua các giáo trình, tài liệu, các báo cáo tổng kết, chuyên đề, các ý kiến phát biểu của các cán bộ, chuyên viên của Bộ Thương mại, Hải quan,... Em đưa ra các phần cơ bản của đề án như sau:
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA CÔNG HÀNG XUẤT KHẨU.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG HÀNG XUẤT KHẨU.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG GIA CÔNG HÀNG XUẤT KHẨU.
Trong thời gian thực tập tốt nghiệp, em đã nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi của cán bộ, chuyên viên ở Vụ Đầu tư - Bộ Thương mại.
Do kinh nghiệm thực tế chưa có, kiến thức có hạn em mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo.
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIA CÔNG HÀNG XUẤT KHẨU
1-/ VAI TRÒ CỦA GIA CÔNG HÀNG XUẤT KHẨU ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN.
1.1. Vị trí của hoạt động gia công hàng xuất khẩu trong thương mại quốc tế.
Thương mại quốc tế ngày nay phát triển mạnh mẽ, nó diễn ra trên phạm vi toàn thế giới. Đây là một tất yếu khách quan trong đời sống kinh tế, xã hội của nhân loại. Thương mại quốc tế giúp cho các nước mở rộng các quan hệ kinh tế, chính trị để phát triển nhanh hơn; đặc biệt là nó giúp cho mỗi nước mở rộng được khả năng tiêu dùng của nước mình, họ có thể tiêu dùng được tất cả các mặt hàng tốt nhất, rẻ nhất, độc đáo nhất,... Do nhận thức được vai trò lớn của thương mại quốc tế mà mỗi nước đều ra sức tăng cường quan hệ buôn bán với các nước khác trên thế giới. Nội dung của thương mại quốc tế là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước bằng việc nhập khẩu hàng hoá để đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu hàng hoá đáp ứng cho nhu cầu khách hàng nước ngoài. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở nước ta bao gồm:
- Tạm nhập để tái xuất, tạm xuất để tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh hàng hoá.
- Chuyển giao quyền sở hữu công nghệ.
- Gia công, chế biến hàng hoá và bán thành phẩm cho nước ngoài hoặc thuê nước ngoài gia công, chế biến.
- Đại lý mua bán hàng hoá, uỷ thác và nhận uỷ thác xuất khẩu, nhập khẩu cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Như vậy, gia công là một trong những hình thức buôn bán quốc tế và nó được thực hiện khá phổ biến nhất là đối với Việt Nam.
Gia công đem lại lợi ích rất lớn cho cả hai bên:
* Đối với bên đặt gia công (Bên thuê gia công).
Lợi ích lớn nhất đối với bên thuê gia công là giảm được chí phí sản xuất do tận dụng được nguồn nhân lực và một phần nguyên vật liệu thường là với giá rẻ ở nước nhận gia công. Chính lợi ích này quyết định xu hướng chuyển dần các ngành sản xuất đòi hỏi nhiều nhân công, nhiều công đoạn tỉ mỷ từ các nước có nền kinh tế phát triển sang các nước mới phát triển có nguồn lao động dồi dào. Bằng phương thức thuê gia công, các nhà kinh doanh ở các nước công nghiệp phát triển đã tiết kiệm đến mức tối đa chi phí đầu vào cho sản xuất, đó là chí phí về tiền công, chí phí về phụ liệu rẻ hơn rất nhiều so với trong nước của họ.
Mặt khác là bên đặt gia công còn có thể chủ động điều chỉnh được nguồn hàng để phục vụ yêu cầu kinh doanh của mình một cách có lợi nhất. Người đi thuê gia công thường có thế mạnh là họ có thị trường tiêu thụ, khi những thị trường này phát sinh nhu cầu lớn thì người thuê gia công vẫn có thể đáp ứng được nhu cầu thị trường bằng cách đặt gia công mà không cần phải bỏ thêm vốn đầu tư mở rộng sản xuất. Như vậy, họ vẫn giữ được thị trường tiêu thụ, tiết kiệm được vốn đầu tư mà vẫn thu về được lợi nhuận lớn.
Trong quá trình thuê gia công, bên đặt gia công còn có thể tạo thêm thị trường tiêu thụ hàng hoá của mình ngay tại nước nhận gia công.
* Đối với bên nhận gia công.
Việc nhận gia công cho nước ngoài đem lại rất nhiều lợi ích cho nước nhận gia công. Thể hiện ở các mặt sau:
- Giải quyết được những khó khăn ban đầu của các nước này khi tham gia vào thị trường thế giới và việc thực hiện chiến lược ngoại thương của mình.
- Khai thác được lợi thế về nguồn nhân lực dồi dào trong nước; giải quyết công ăn việc làm cho một bộ phận lao động dư thừa trong xã hội; góp phần cải thiện đời sống cho người lao động.
- Giải quyết được khó khăn về vốn đầu tư và kỹ thuật, làm tiền đề để xây dựng các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp nhẹ trong nước, dần dần làm thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng dần tỉ trọng hàng đã qu chế biến, giảm tỉ lệ hàng là nguyên liệu thô chưa qua chế biến, tăng hiệu quả hoạt động xuất khẩu.
- Khắc phục được khó khăn về thị trường tiêu thụ, không phải chịu những rủi ro khi tìm kiếm thị trường nước ngoài. Đồng thời sử dụng được mạng lưới và kinh nghiệm tiêu thụ hàng hoá của nước đặt gia công, nhờ đó mà có khả năng thâm nhập được vào thị trường mới.
- Nhờ gia công hàng xuất khẩu mà có thể kết hợp xuất khẩu được một số vật tư, nguyên liệu sẵn có trong nước, phát triển thêm nguồn hàng; khai thác được triệt để nguồn nhân lực nhàn rỗi mang tính mùa vụ.
- Trang bị và khai thác được máy móc, thiết bị tiên tiến, quy trình công nghệ mới mà không mất nhiều thời gian nghiên cứu, thử nghiệm.
- Góp phần tăng thu ngoại tệ cho ngân sách Nhà nước, giảm sự mất cân đối trong thanh toán quốc tế,...
Chính vì hoạt động này đem lại nhiều lợi ích như vậy nên phương thức kinh doanh gia công trên thị trường quốc tế ngày càng phát triển, không chỉ với những nước kinh tế đang phát triển quan tâm mà cả những nước công nghiệp phát triển cũng vẫn sử dụng để có được lợi ích mà phương thức gia công đem lại.
1.2. Khái quát về gia công hàng xuất khẩu.
1.2.1. Khái niệm về gia công.
Gia công thương mại là một phương thức kinh doanh trong đó một bên (gọi là bên nhận gia công) nhận nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm của một bên khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến, cải tiến, lắp ráp thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và nhận một khoản thù lao gọi là phí gia công.
Nội dung gia công gồm: sản xuất, chế biến, chế tác, sửa chữa, tái chế, lắp ráp, phân loại, đóng gói hàng hoá,... theo yêu cầu bằng nguyên vật liệu của bên đặt gia công.
Đặc điểm của phương thức này là hoạt động sản xuất gắn liền với tiêu thụ hàng hoá, bên đặt gia công là nơi cung cấp nguyên vật liệu đồng thời cũng chịu trách nhiệm tiêu thụ hàng hoá.
Luật Thương mại Việt Nam (thông qua tại kỳ họp Quốc hội ngày 10/5/1999) đưa ra khái niệm về gia công với thương nhân nước ngoài như sau:
Gia công với thương nhân nước ngoài là việc gia công trong thương mại theo đó bên đặt gia công, bên nhận gia công là thương nhân có trụ sở chính hoặc nơi cư trú thường xuyên tại các nước khác nhau nhưng phải có một bên là thương nhân hoạt động thương mại tại Việt Nam.
Như vậy, phạm vi hoạt động gia công với thương nhân nước ngoài bao gồm:
- Thương nhân Việt Nam gia công cho thương nhân nước ngoài tại Việt Nam.
- Thương nhân Việt Nam thuê thương nhân nước ngoài gia công ở nước ngoài.
Trong điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay, hoạt động thuê nước ngoài gia công còn rất ít, hầu như nói đến gia công quốc tế ở Việt Nam người ta chỉ chú trọng đến gia công hàng hoá cho nước ngoài hay còn gọi là gia công hàng xuất khẩu.
Ta có khái niệm về gia công hàng xuất khẩu sau:
Gia công xuất khẩu ở Việt Nam là một hành vi thương mại mà người đặt gia công - chủ hàng nước ngoài giao cho người nhận gia công - doanh nghiệp Việt Nam nguyên liệu, vật tư, bán thành phẩm,... để sản xuất, chế biến, lắp ráp ra sản phẩm mới, hoặc bán thành phẩm theo mẫu mã, tiêu chuẩn kỹ thuật do người đặt gia công quy định, sau đó xuất trả chủ hàng nước ngoài, hoặc bên nước ngoài khác do bên đặt gia công chỉ định. Doanh nghiệp Việt Nam nhận gia công được trả một khoản tiền gọi là phí gia công theo thoả thuận giữa hai bên.
Theo quy định của Luật pháp Việt Nam thì hiện nay doanh nghiệp nhận gia công cho nước ngoài ở Việt Nam bao gồm các doanh nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, hoặc chưa có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo quy định của Luật Đầu tư của Nhà nước Việt Nam.
1.2.2. Các hình thức gia công chủ yếu.
Có rất nhiều cách phân loại. Sau đây là các cách phân loại chủ yếu:
1.2.2.1. Căn cứ vào quyền sở hữu nguyên vật liệu để gia công:
Có hai hình thức:
+ Giao nguyên liệu, thu thành phẩm.
Bên đặt gia công giao nguyên liệu, bán thành phẩm và các yêu cầu về mẫu mã cho bên nhận gia công sau thời gian chế tạo, sản xuất sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công.
Với hình thức này thì quyền sở hữu về nguyên vật liệu, hàng hoá vẫn thuộc về bên đặt gia công trong suốt thời gian sản xuất, người đặt gia công phải lo tiêu thụ sản phẩm. Bên nhận gia công có lợi là không phải bỏ tiền mua nguyên vật liệu, nếu biết sử dụng một cách tiết kiệm so với định mức tiêu hao nguyên vật liệu thì còn được hưởng phần nguyên liệu dôi ra. Tuy nhiên, bên nhận gia công sẽ bị phụ thuộc nhiều vào bên thuê gia công về tiến độ sản xuất, thị trường tiêu thụ, dễ bị động trong tổ chức sản xuất và phí gia công thường thấp, hiệu quả kinh tế kém.
+ Bán nguyên liệu, thu thành phẩm.
Bên thuê gia công giao nguyên liệu, thường là nguyên liệu chính có tính tiền, bên nhận gia công tổ chức sản xuất rồi giao thành phẩm cho bên thuê gia công và nhận về tiền sản phẩm bao gồm cả tiền công và tiền nguyên vật liệu.
Trong trường hợp này quyền sở hữu nguyên vật liệu thuộc về bên nhận gia công.
Sử dụng hình thức này người thuê gia công không phải chịu chi phí ứng trước về nguyên vật liệu, ít chịu rủi ro trong quá trình sản xuất.
Bên nhận gia công có thể chủ động trong khâu sản xuất, có thể đưa thêm một số nguyên vật liệu phụ sẵn có trong nước, giảm chí phí sản xuất. Kết quả là thu được số tiền nhiều hơn kiểu làm thuê thông thường.
1.2.2.2. Căn cứ vào giá cả gia công
Có hai hình thức:
+ Hợp đồng thực chi, thực thanh: trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chí phí thực tế của mình cộng với tiền thu lao gia công.
+ Hợp đồng khoán: trong trường hợp này người ta xác định một giá định mức cho mỗi sản phẩm, bao gồm chí phí định mức và thu lao định mức. Dù chí phí thực tế của bên nhận gia công là bao nhiêu đi nữa thì hai bên vẫn thanh toán với nhau theo giá định mức.
1.2.2.3. Căn cứ vào các bên tham gia hợp đồng gia công.
Có hai hình thức.
+ Hình thức gia công hai bên: mối quan hệ giữa bên thuê gia công và bên nhận gia công được xác định trong một hợp đồng gia công.
+ Hình thức gia công nhiều bên hay gia công chuyển tiếp: theo hình thức này thì sản phẩm gia công của đơn vị trước là nguyên liệu gia công của đơn vị sau. Việc giao nhận giữa bên nhận gia công và bên thuê gia công có thể phải qua nhiều nước hoặc nhiều tổ chức gia công khác nhau trong cùng một nước.
Hình thức này đã có từ lâu, về cơ bản cũng giống như hình thức giao nguyên liệu, nhận thành phẩm nhưng có khác nhau về chủ thể trong mối quan hệ gia công. Bên đặt gia công vẫn là một bên trong hợp đồng, còn bên nhận gia công có thể là nhiều đối tượng khác nhau. Đối tượng thực hiện gia công chuyển tiếp này phải được bên đặt gia công chỉ định.
Bên đặt gia công lựa chọn hình thức này nhằm mục đích tận dụng tối đa năng lực, tay nghề của mỗi nước; giảm chi phí vận chuyển đồng thời.
Dù áp dụng hình thức gia công nào thì mối quan hệ giữa hai bên vẫn được xác định trong hợp đồng gia công trong đó quyền và nghĩa vụ của các bên được quy định cụ thể.
1.3. Lợi ích của gia công hàng xuất khẩu trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam.
Việc gia công hàng hoá cho nước ngoài được Nhà nước ta khuyến khích và tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ, không phải chỉ do xu thế phát triển của phân công lao động quốc tế, do lợi ích của bản thân phương thức này đem lại mà còn do lợi thế của nước ta trong việc phát triển kinh tế đối ngoại nói chung trong đó có hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Đó là những lợi thế:
- Vị trí địa lý: Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Châu Á là nơi có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế cao và năng động. Vị trí của Việt Nam nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế từ các nước: Singapore, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc sang cácn ước Nam Á, Trung Đông và Châu Phi,... Ven biển Việt Nam có nhiều cảng sâu, khí hậu tốt, ít bão và sương mù, tàu bè nước ngoài có thể cập bến an toàn quanh năm. Việt Nam còn nằm trên trục đường bộ và đường sắt từ Châu Âu sang Trung Quốc qua Campuchia, Thái Lan, Pakistan, Ấn Độ,... Về vận tải hàng không có sân bay Tân Sơn Nhất nằm ở vị trí trung tâm của các thủ đô và thành phố trong vùng nên việc đi lại và vận chuyển rất thuận lợi.
- Nguồn lao động dồi dào: theo điều tra dân số mới đây thì hiện nay dân số nước ta là trên 81 triệu người với tỉ lệ tăng là 2%/năm, trong đó có khoảng 40 triệu người đang ở độ tuổi lao động. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều chính sách về phát triển kinh tế để giải quyết công ăn việc làm nhưng hiện nay tỉ lệ thất nghiệp vẫn còn khá cao (khoảng 10-15% số người trong độ tuổi lao động). Giá nhân công ở nước ta xếp vào một trong những nước trẻ nhất thế giới, khoảng 0,16 USD/1 giờ lao động trong khi đó ở Nhật Bản là 13 USD/1 giờ lao động. Trong đội ngũ lao động có trên 700 người có trình độ đại học và trên đại học, ngoài ra có khoảng 30 vạn lao động được đào tạo ở các trường trung cấp và dạy nghề hàng năm. Đó là nguồn lao động có khả năng tiếp thu và vận dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và sản xuất hàng xuất khẩu.
- Tài nguyên thiên nhiên: so với các nước trên thế giới và khu vực thì nước ta thuộc loại có tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành sản xuất, chế biến hàng hoá xuất khẩu.
- Ngoài ra nước ta còn là một thị trường lớn, yêu cầu của dân cư trong thị trường này chưa tới mức khắt khe nên khả năng thâm nhập thị trường tương đối dễ. Điều này khiến các thương nhân nước ngoài tăng cường buôn bán với Việt Nam để chiếm lĩnh thị trường hoặc thông qua việc đặt gia công để dần dần chiếm lĩnh thị trường.
Ngoài các lợi thế trên Việt Nam còn có các chính sách ưu đãi về thuế quan, các Hiệp định bảo hộ đầu tư đối với một số mặt hàng như dệt, may mặc, giầy dép đã thúc đẩy các bạn hàng tìm đến Việt Nam để tranh thủ lợi thế này để có đựoc giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá (C/O) nhằm giảm được mức thuế nhập khẩu khi xuất sản phẩm sang thị trường các khối nước phát triển như EU, Canada, Mỹ,...
2-/ NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ HỢP ĐỒNG GIA CÔNG QUỐC TẾ.
2.1. Đặc điểm của hợp đồng gia công quốc tế.
Cũng như các hoạt động giao dịch trong thương mại, việc gia công hàng hoá cho nước ngoài được thực hiện thông qua việc ký kết một hợp đồng.
Là một dạng của hợp đồng giao dịch ngoại thương, nó cũng có những đặc tính cơ bản của một hợp đồng kinh tế.
Việc ký kết phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, hai bên cùng có lợi và phải tuân thủ sự điều chỉnh của hệ thống các quy phạm pháp luật.
Hợp đồng gia công quốc tế được hình thành bởi yếu tố nước ngoài. Điều này tạo nên tính chất phức tạp của hợp đồng gia công và nó có những đặc điểm riêng như: về chủ thể hợp đồng, đối tượng hợp đồng, đồng tiền thanh toán, nguồn luật điều chỉnh.
- Chủ thể hợp đồng gia công cho nước ngoài có thể là cá nhân hoặc pháp nhân có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau vì vậy mà các bên tham gia quan hệ chịu sự điều chỉnh của các hệ thống pháp luật khác nhau căn cứ vào nơi đăng ký kinh doanh.
- Đối tượng của hợp đồng gia công cho nước ngoài là nguyên vật liệu, bán thành phẩm, các loại sản phẩm gia công được chuyển dịch qua biên giới nên các đối tượng này phải chịu sự kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý và chịu các nghĩa vụ về thuế xuất, nhập khẩu đồng thời phải tuân thủ các điều ước quốc tế về quyền và nghĩa vụ giao hàng.
- Đồng tiền thanh toán trong hợp đồng gia công quốc tế mang đặc điểm của hợp đồng kinh doanh xuất, nhập khẩu; nó được thoả thuận khi ký kết hoạt động và luôn là ngoại tệ với một trong hai bên hoặc cả hai bên, đồng tiền thanh toán thường là một ngoại tệ mạnh.
- Nguồn luật điều chỉnh: phải chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật quốc gia, hệ thống luật pháp quốc tế gồm các công ước, hiệp ước quốc tế, các tập quán thương mại quốc tế,...
Với những đặc điểm trên, ta có thể nhận thấy rõ những khác biệt cơ bản của hợp đồng gia công quốc tế so với các hợp đồng kinh tế thông thường. Có thể nói, đặc điểm tiêu biểu nhất chỉ ra bản chất của hợp đồng gia công quốc tế cũng như khẳng định tính đặc biệt của loại hợp đồng này trng kinh doanh xuất nhập khẩu đó là: quan hệ hợp đồng này là làm thuê để nhận thu lao, ở đây sức lao động là hàng hoá.
Với tính chất là hợp đồng làm thuê cho nước ngoài, hợp đồng gia công cho nước ngoài thực hiện việc xuất khẩu tại chỗ sức lao động - một hoạt động đem lại lợi ích kinh tế cho mỗi quốc gia và phù hợp với xu hướng phân công lao động, và chuyên môn hoá ngày càng cao của nền kinh tế thế giới.
2.2. Các điều khoản chủ yếu của hợp đồng gia công quốc tế.
Hợp đồng gia công hàng xuất khẩu là sự thoả thuận bằng văn bản giữa bên đặt gia công và bên nhận gia công có trụ sở đóng ở các nước khác nhau nhằm mục đích sản xuất, chế biến, lắp ráp sản phẩm cho bên đặt gia công quy định trên cơ sở nguyên vật liệu do bên đặt gia công giao trước để sau đó bên nhận gia công được nhận một khoản thu lao nhất định.
Để tránh những tranh chấp xảy ra, để bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên tham gia ký kết hợp đồng thì một hợp đồng gia công phải bao gồm các điều khoản sau:
2.2.1. Điều khoản về nguyên vật liệu.
Nguyên vật liệu là đối tượng của hợp đồng gia công thường bao gồm toàn bộ nguyên vật liệu để chế biến, sản xuất sản phẩm gia công, nhưng có khi chỉ là nguyên liệu chính. Điều khoản này bao gồm: tên, loại nguyên liệu, quy cách; phẩm chất; số lượng; giá cả nguyên vật liệu; định mức nguyên vật liệu; sự bảo đảm số lượng và chất lượng nguyên vật liệu.
- Tên nguyên vật liệu được ghi tỷ mỷ, chi tiết, dễ hiểu không dùng tiếng địa phương thay cho tên khoa học, để