Nền kinh tế Việt Nam đang thực hiện bước chuyển đổi cơ chế kinh tế. Việc phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gặp không ít khó khăn vì cơ sở hạ tầng lạc hậu kỹ thuật, không đáp ứng được yêu cầu mục tiêu đề ra. Vì vậy, phải có một sự đổi mới toàn diện về giao thông, kiến trúc đô thị. Ngành xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất kỹ thuật hạ tầng cho toàn bộ nền kinh tế, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cho đến nay, ngành này đã khắc phục được tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông trọng yếu, xây dựng các cầu cống, sân bay các tuyến đường giao thông mới đáp ứng nhu cầu vận tải lưu thông giữa các vùng , các quốc gia.
Chính vì tầm quan trọng của ngành xây dựng cơ bản trong phát triển kinh tế, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm chú trọng phát triển loại hình sản xuất kinh doanh này. Vấn đề đặt ra là phải làm sao quản lý một cách có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí trong kinh doanh xây lắp.
Cũng như các doanh nghiệp khác chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là thước đo trình độ công nghệ sản xuất và trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp kinh doanh xây lắp. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất với giá thành sản phẩm do kế toán cung cấp nhà quản lý doanh nghiệp sẽ nắm được chi phí của từng hoạt động cụ thể,giá thành của từng sản phẩm để đánh giá tình hình thực hiện định mức, kế hoạch của doanh nghiệp mình. Từ đó, doanh nghiệp tìm cách cải tiến đổi mới công nghệ sản xuất,đổi mới phương pháp quản lý nhằm tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm.
Báo cáo này gồm 3 chương chính:
Chương1: Lý luận chung về chi phí và tính giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp xây lắp .
Chương2: Thực trạng công tác quản lý chi phí Và tính giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần xây dựng CTGT 118
Chương3: Một số biện pháp tăng cường quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần xây dựng CTGT 118.
48 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 2577 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp tăng cường quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở công ty cổ phần xây dựng CTGT 118, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế Việt Nam đang thực hiện bước chuyển đổi cơ chế kinh tế. Việc phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gặp không ít khó khăn vì cơ sở hạ tầng lạc hậu kỹ thuật, không đáp ứng được yêu cầu mục tiêu đề ra. Vì vậy, phải có một sự đổi mới toàn diện về giao thông, kiến trúc đô thị... Ngành xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất kỹ thuật hạ tầng cho toàn bộ nền kinh tế, đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Cho đến nay, ngành này đã khắc phục được tình trạng xuống cấp của hệ thống giao thông trọng yếu, xây dựng các cầu cống, sân bay các tuyến đường giao thông mới đáp ứng nhu cầu vận tải lưu thông giữa các vùng , các quốc gia.
Chính vì tầm quan trọng của ngành xây dựng cơ bản trong phát triển kinh tế, Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm chú trọng phát triển loại hình sản xuất kinh doanh này. Vấn đề đặt ra là phải làm sao quản lý một cách có hiệu quả, khắc phục tình trạng lãng phí trong kinh doanh xây lắp.
Cũng như các doanh nghiệp khác chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là thước đo trình độ công nghệ sản xuất và trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp kinh doanh xây lắp. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất với giá thành sản phẩm do kế toán cung cấp nhà quản lý doanh nghiệp sẽ nắm được chi phí của từng hoạt động cụ thể,giá thành của từng sản phẩm để đánh giá tình hình thực hiện định mức, kế hoạch của doanh nghiệp mình. Từ đó, doanh nghiệp tìm cách cải tiến đổi mới công nghệ sản xuất,đổi mới phương pháp quản lý nhằm tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của quản lý chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Trong thời gian thực tập tại Công ty cổ phần xây dựng CTGT 118, em đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp tăng cường quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm ở công ty cổ phần xây dựng CTGT 118 ”.
Được sự hướng dẫn của Thầy Giáo kết hợp với sự giúp đỡ của Ban lãnh đạo và Phòng tài chính kế toán của Công ty, em đã hoàn thành báo cáo này. Báo cáo này gồm 3 chương chính:
Chương1: Lý luận chung về chi phí và tính giá thành sản phẩm ở các doanh nghiệp xây lắp .
Chương2: Thực trạng công tác quản lý chi phí Và tính giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần xây dựng CTGT 118
Chương3: Một số biện pháp tăng cường quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm của Công ty cổ phần xây dựng CTGT 118.
Chương I.
Lý luận chung về chi phí và
TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM CỦA DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
I. CHI PHÍ SẢN XUẤT TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1. Khái niệm và đối tượng tính chi phí sản xuất
1.1 Khái niệm chi phí sản xuất
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp phải huy động, sử dụng các nguồn tài lực, vật lực (sức lao động, vật tư, tiền vốn...) để phục vụ cho việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hàng hoá, thực hiện các công việc lao vụ, thu mua dự trữ hàng hoá, luân chuyển lưu thông sản phẩm, thực hiện các hoạt động đầu tư,... kể cả chi cho công tác quản lý chung của doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản hao phí về lao động sống và lao động vật hoá cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Các chi phí mà doanh nghiệp chi ra cấu thành nên giá trị của sản phẩm. Giá trị của hàng hoá bao gồm 3 bộ phận sau:
C + V + m
Trong đó:
C: Hao phí lao động vật hoá tức là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình tạo ra sản phẩm như khấu hao TSCĐ, chi phí NVL, công cụ dụng cụ...
V: Hao phí lao động sống tức là chi phí về tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm.
m: Là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình hoạt động tạo ra sản phẩm, lao vụ, dịch vụ.
Như vậy, chi phí sản xuất bao gồm hai bộ phận C + V, đây là chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để sản xuất sản phẩm. Những chi phí cho hoạt động sản xuất kinh doanh này đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ.
Có thể nói chi phí sản xuất của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định. Các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên và gắn liền với quá trình thi công công trình và hạng mục công trình.
1.2 Đối tượng tính chi phí sản xuất
Đối tượng tính chi phí sản xuất là phạm vi, giới hạn để tập hợp các chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Thực chất của việc xác định và tập hợp chi phí sản xuất là xác định nơi phát sinh chi phí, nơi chịu chi phí.
Để xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất hợp lý, phù hợp với từng doanh nghiệp, các nhà quản trị thường căn cứ vào:
- Tính chất sản xuất, loại hình sản xuất và đặc điểm quy trình công nghệ.
- Yêu cầu tính giá thành, yêu cầu quản lý, khả năng trình độ quản lý, trình độ hạch toán của doanh nghiệp.
2. Vai trò của chi phí sản xuất và sự cần thiết phải quản lý chi phí sản xuất trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Trong điều kiện kinh tế thị trường, các doanh nghiệp được tự do sản xuất, tự do kinh doanh các mặt hàng phù hợp với các điều kiện của doanh nghiệp. Từ đó đã nảy sinh việc nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất ra một loại sản phẩm cung ứng cho thị trường. Trong điều kiện “trăm người mua, vạn người bán”, doanh nghiệp phải có những biện pháp để chiếm lĩnh thị trường. Với doanh nghiệp xây lắp, việc giảm chi phí ở từng công trình, hạng mục công trình ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng thi công cũng như lợi nhuận thu được. Việc làm sao để giảm tối đa chi phí xây dựng mà không ảnh hưởng đến chất lượng của công trình là việc làm tối quan trọng trong công tác quản lý chi phí sản xuất ở các doanh nghiệp xây lắp.
3. Phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp
Các chi phí phát sinh và cách thức mà chúng được xếp vào loại luôn gắn với loại hình tính chất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự phân loại chi phí có ý nghĩa hết sức to lớn và thiết yếu trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Việc phân loại chi phí vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan. Khách quan vì nó phụ thuộc vào bản chất của chi phí, còn chủ quan là xuất phát từ nhu cầu và mục đích quản lý của doanh nghiệp.
Chi phí sản xuất của doanh nghiệp bao gồm nhiều loại, có nội dung, tính chất kinh tế khác nhau, có mục đích và công dụng khác nhau. Sự thành công của doanh nghiệp không chỉ được đánh giá trên lợi nhuận mà còn được xem xét trên mức tiết kiệm chi phí kinh doanh của doanh nghiệp đó. Đấy mới chính là kết quả thực sự ẩn chứa sau bề mặt thành công về lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được. Để làm được điều này, các nhà quản lý phải biết kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện định mức chi phí ở từng bộ phận sản xuất và toàn bộ doanh nghiệp trong từng thời gian nhất định. Do đó phải tiến hành phân loại chi phí.
3.1 Phân loại chi phí sản xuất theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí
Theo cách phân loại này những chi phí có cùng nội dung kinh tế, tính chất sẽ được xếp vào cùng một yếu tố chi phí không phân biệt chi phí đó phát sinh ở lĩnh vực nào. Cách phân loại này còn gọi là phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố. Toàn bộ chi phí sản xuất được chia làm các yếu tố sau:
+ Chi phí NVL: Bao gồm toàn bộ chi phí về các loại vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản mà doanh nghiệp đã sử dụng cho hoạt động sản xuất trong kỳ.
+ Chi phí nhân công: Là toàn bộ số lượng, tiền công phải trả, tiền trích BHYT, BHXH, KPCĐ của nhân viên hoạt động sản xuất trong doanh nghiệp.
+ Chi phí khấu hao TSCĐ: Là toàn bộ số tiền trích khấu hao TSCĐ trong doanh nghiệp như các loại máy thi công, nhà xưởng, ô tô...
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm toàn bộ số tiền, doanh nghiệp đã chi trả về các dịch vụ đã mua từ bên ngoài như tiền điện, tiền nước, điện thoại, ... phục vụ cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
+ Chi phí khác bằng tiền: Bao gồm toàn bộ chi phí khác phát sinh trong quá trình sản xuất ngoài 4 yếu tố chi phí trên.
Phân loại theo nội dung, tính chất của chi phí giúp nhà quản lý biết được kết cấu, tỷ trọng các chi phí chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh đó. Qua đó doanh nghiệp đánh giá được tình hình dự toán chi phí thi công, nó là cơ sở để lập báo cáo chi phí theo yếu tố trên bảng “thuyết minh báo cáo tài chính”, xây dựng định mức vốn lưu động, lập kế hoạch mua sắm vật tư, tổ chức lao động tiền lương thuê máy thi công.
3.2 Phân loại chi phí sản xuất theo mục đích và công dụng của chi phí
Theo cách phân loại này những chi phí có cùng mục đích, công dụng đối với hoạt động sản xuất sẽ được xếp vào cùng một khoản mục chi phí, không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Vì vậy, cách phân loại này còn gọi là phân loại chi phí theo khoản mục. Chi phí sản xuất được chia thành các khoản mục chi phí sau:
+ Chi phí NVL trực tiếp: Bao gồm chi phí về vật liệu chính vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng trực tiếp cho thi công công trình, hạng mục công trình mà đơn vị xây lắp đã bỏ ra.
+ Chi phí nhân công trực tiếp: Bao gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp tiền lương và tiền công của công nhân trực tiếp sản xuất và hoàn thành sản phẩm xây lắp.
+ Chi phí sử dụng máy thi công: Bao gồm các khoản chi phí liên quan đến việc sử dụng máy thi công để thực hiện công tác xây lắp bằng máy thi công hỗn hợp như: chi phí nhân công, chi phí NVL và các chi phí bằng tiền khác.
+ Chi phí sản xuất chung: Là những khoản chi phí phục vụ cho nhân viên quản lý tổ, đội, tiền lương của đội trưởng, của nhân viên giám sát, các khoản BHXH, BHYT, CPCĐ tính theo tỷ lệ quy định trên tiền lương của nhân công trực tiếp sản xuất, nhân viên quản lý đội, chi phí dịch vụ mua ngoài và chi phí khác bằng tiền.
Cách phân loại chi phí theo khoản mục là cơ sở để xác định giá thành công xưởng, giá thành toàn bộ, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành cũng như là căn cứ để kiểm soát, quản lý chi phí. Đây là cách phân loại thường dùng trong XDCB, phù hợp với phương pháp lập dự toán giá thành sản phẩm.
+ Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là toàn bộ chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp.
3.3 Phân theo cách thức kết chuyển chi phí
Theo cách phân loại này, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh được chia thành chi phí sản phẩm và chi phí thời kỳ.
+ Chi phí sản phẩm: Là những chi phí gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm hay quá trình mua hàng hoá để bán.
+ Chi phí thời kỳ: Là những chi phí làm giảm lợi tức trong một kỳ nào đó, nó không phải là một phần giá trị sản phẩm sản xuất ra hoặc mua nên được xem là các phí tổn, cần được khấu hao ra từ lợi nhuận của thời kỳ mà chúng phát sinh.
3.4 Phân theo quan hệ của chi phí với khối lượng công việc, sản phẩm hoàn thành
Để thuận lợi cho việc lập kế hoạch và kiểm tra chi phí, đồng thời làm căn cứ để đề ra các quyết định kinh doanh, toàn bộ chi phí sản xuất kinh doanh lại được phân theo quan hệ khối lượng công việc hoàn thành. Theo cách này, được chia thành hai loại:
- Chi phí cố định: là những chi phí không đổi về tổng số so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn các chi phí về khấu hao TSCĐ, chi phí thuê mặt bằng, phương tiện kinh doanh ....
- Chi phí biến đổi: Là những chi phí thay đổi về tổng số, tỷ lệ, so với khối lượng công việc hoàn thành, chẳng hạn chi phí nguyên vật liệu, nhân công trực tiếp...
4. Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp
4.1 Phương pháp trực tiếp:
Áp dụng phương pháp này với những chi phí có liên quan trực tiếp đến đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phát sinh để tập hợp trực tiếp cho từng đối tượng.
4.2 Phương pháp phân bổ gián tiếp
Áp dụng khi một chi phí sản xuất liên quan đến nhiều đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất, không thể tập hợp trực tiếp. Chi phí sản xuất phân bổ cho từng đối tượng được xác định theo công thức sau:
Ci = x Ti
Trong đó:
Ci: Chi phí sản xuất phân bổ cho đối tượng i
( C: Tổng chi phí sản xuất đã tập hợp dùng để phân bổ
( Ti: Tổng đại lượng tiêu chuẩn dùng để phân bổ
Ti: Đại lượng tiêu chuẩn dùng để phân bổ của đối tượng i
II. GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY LẮP
1. Khái niệm và đối tượng tính giá thành sản phẩm
1.1 Khái niệm giá thành sản phẩm
Trong sản xuất kinh doanh, chi phí mới chỉ là mặt thứ nhất thể hiện sự hao phí . Còn để đánh giá chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí chi ra phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ bản của quá trình sản xuất, đó là kết quả thu được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, quan hệ so sánh đó đã hình thành nên chỉ tiêu “giá thành sản phẩm”.
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định.
Giá thành sản phẩm của một doanh nghiệp biểu hiện chi phí cá biệt của doanh nghiệp để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Cùng một loại sản phẩm có thể có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất nhưng do trình độ quản lý khác nhau, giá thành sản phẩm đó sẽ khác nhau.
1.2 Đối tượng tính giá thành trong doanh nghiệp xây lắp
Đối tượng tính giá thành là các loại sản phẩm, công việc lao vụ do doanh nghiệp sản xuất ra và cần phải tính tổng giá thành và giá thành đơn vị.
Xuất phát từ đặc điểm của XDCB là sản phẩm mang tính đơn chiếc, mỗi sản phẩm có giá dự toán riêng và yêu cầu quản lý chi phí theo dự toán nên đối tượng tính giá thành trong XDCB là các công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành bàn giao.
1.3 Kỳ tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây lắp
Kỳ tính giá thành là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần phải tiến hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành. Xác định kỳ tính giá thành hợp lý sẽ giúp cho việc tổ chức công tác tính giá thành sản phẩm khoa học, đảm bảo cung cấp số liệu về giá thành thực tế của sản phẩm, lao vụ kịp thời, phát huy đầy đủ chức năng giám sát tình hình thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp.
Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm và chu kỳ sản xuất sản phẩm, kỳ tính giá thành trong doanh nghiệp xây dựng cơ bản thường là:
- Đối với những công trình, hạng mục công trình được coi là hoàn thành khi kết thúc mọi công việc trong thiết kế thì kỳ tính giá thành công trình, hạng mục công trình đó là khi hoàn thành công trình, hạng mục công trình.
- Đối với những công trình lớn, thời gian thi công dài, kỳ tính giá thành là khi hoàn thành một bộ phận công trình có giá trị sử dụng được nghiệm thu hoặc từng công việc xây lắp đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý theo thiết kế kỹ thuật có ghi trong hợp đồng thi công hoặc được bàn giao thanh toán.
Ngoài ra đối với những công trình lớn, thời gian thi công dài, kết cấu phức tạp,... thì kỳ tính giá của doanh nghiệp có thể là hằng quý, sáu tháng hay một năm.
2. Vai trò của việc tính giá thành sản phẩm
Trong công tác quản lý các hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu giá thành sản phẩm giữ vai trò quan trọng.
- Giá thành là thước đo mức hao phí từ hoạt động và tiêu thụ sản phẩm, là căn cứ để xác định hiệu quả hoạt động kinh doanh. Để quyết định lựa chọn sản xuất một loại sản phẩm nào đó, doanh nghiệp cần phải nắm được nhu cầu thị trường, giá cả thị trường và mức hao phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đó. Trên cơ sở như vậy, mới xác định được hiệu quả sản xuất loại sản phẩm đó để quyết định lựa chọn và quyết định khối lượng sản xuất sao cho đạt hiệu quả tối đa.
- Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm tra soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, xem xét hiệu quả của các biện pháp tổ chức kỹ thuật, qua tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, doanh nghiệp có thể xem xét tình hình sản xuất và chi phí bỏ vào sản xuất tác động vào hiệu quả thực hiện các biện pháp tổ chức kỹ thuật để sản xuất, phát hiện và tìm ra các nguyên nhân dẫn đến phát sinh chi phí không hợp lý để có biện pháp loại trừ.
3. Phân loại giá thành sản phẩm
3.1 Phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành: chia làm 3 loại:
- Giá thành kế hoạch: được xác định trên cơ sở chi phí, sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính giá thành do bộ phận kế hoạch của doanh nghiệp thực hiện và được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất, chế tạo sản phẩm. Giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm.
- Giá thành định mức: Cũng như giá thành kế hoạch giá thành định mức cũng như được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở định mức bình quân tiên tiến, và không biến đổi suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức được xác định trên cơ sở định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
- Giá thành thực tế: Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh và tập hợp được trong kỳ cũng như sản lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất trong kỳ. Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghiệp trong việc tổ chức và sử dụng các giải pháp kinh tế kỹ thuật tổ chức và công nghệ... để thực hiện quá trình sản xuất sản phẩm, là cơ sở để xác định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2 Phân loại theo phạm vi phát sinh chi phí
- Giá thành sản xuất sản phẩm: bao gồm các chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm tính cho sản phẩm, công việc lao vụ đã hoàn thành. Chi phí sản xuất gồm chi phí vật tư trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sử dụng máy và chi phí sản xuất chung.
- Giá thành tiêu thụ: Bao gồm giá thành sản xuất, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng tính cho sản phẩm tiêu thụ. Vì vậy, chi phí tiêu thụ là chi phí phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức:
= + +
4. Phương pháp tính giá thành sản phẩm
* Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp là phương pháp sử dụng số liệu về chi phí sản xuất để tính tổng giá thành và giá thành thực tế đơn vị, thực tế sản phẩm kế hoạch lao vụ đã hoàn thành theo những yếu tố hoặc những khoản mục giá thành trong kỳ giá thành đã được xác định.
4.1 Phương pháp trực tiếp (giản đơn)
Theo phương pháp này, tập hợp tất cả chi phí sản xuất phát sinh trực tiếp cho một công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn thành chính là giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình đó. Trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất đã tập hợp trong kỳ và chi phí của sản phẩm dở dang đã xác định, giá thành sản phẩm tính cho từng khoản mục chi phí theo công thức:
Z = Dđk + C - Dck
Trong đó:
Z : Giá thành sản phẩm
Dđk, Dck: Chi phí thực tế dở dang đầu kỳ và cuối kỳ
C: Chi phí thực tế phát sinh trong kỳ
4.2 Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng
Phương pháp này áp dụng cho trường hợp doanh nghiệp nhận thầu xây lắp theo đơn đặt hàng. Chi phí thực tế phát sinh được tập hợp trong kỳ theo từng đơn đặt hàng, đó chính là toàn bộ chi phí được tập hợp khi khởi công khi hoàn thành đơn đặt hàng.
4.3 Phương pháp tổng cộng chi phí:
Phương pháp này áp dụng thích hợp cho trường hợp doanh nghiệp tập hợp chi phí theo đơn vị thi công hay khu vực thi công. Đối tượng tính giá thành là sản phẩm cuối cùng. Cách tính như sau:
= + + +...+ -
4.4 Tính giá thành theo phương pháp hệ số:
Phương pháp hệ số được áp dụng trong những doanh nghiệp mà trong cùng một quá trình sản xuất, cùng sử dụng một thứ nguyên liệu và một lượng lao động nhưng thu được đồng thời nhiều sản phẩm khác nhau và chi phí không tập hợp riêng cho từng loại sản phẩm được mà phải tập hợp chung cho cả quá trình sản xuất sản phẩm. Để tính được giá thành sản phẩm, ta còn phải căn cứ vào hệ số giá thành quy định cho từng sản phẩm. Tiến hành the