Từ khi Đảng và nhà nước ta tiến hành công cuộc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trường có sự điếu tiết của nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ và tích cực. Tổng sản phẩm quốc nội tăng liên tục trong một thời gian dài, mức sống của nhân dân được cải thiện. Nguyên nhân chính là do sản xuất ngày một phát triển, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngày một quan tâm đến hiệu quả hoạt động của đơn vị mình. Trong nền kinh tế thị trường, đối với bất kì đơn vị sản xuất kinh doanh nào thì lợi nhuận bao giờ cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Để phấn đấu đạt mức lợi nhuận cao và ổn định đòi hỏi các doanh nghiệp phải cố gắng trên tất cả các mặt hoạt động bao gồm tăng doanh thu, cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản xuất Do vậy nếu căn cứ vào việc phân tích đánh giá lợi nhuận của một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, chúng ta có thể đánh giá được một cách toàn diện về các mặt ưu nhược điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp đó.
Xuất phát từ những lý do trên, trong thời gian thực tập tại công ty Điện lực Bắc Giang, em đã chọn đề tài “1 số biện pháp tăng lợi nhuận tại công ty Điện lực Bắc Giang “để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
58 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2019 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số biện pháp tăng lợi nhuận tại công ty Điện lực Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Từ khi Đảng và nhà nước ta tiến hành công cuộc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trường có sự điếu tiết của nhà nước, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến mạnh mẽ và tích cực. Tổng sản phẩm quốc nội tăng liên tục trong một thời gian dài, mức sống của nhân dân được cải thiện. Nguyên nhân chính là do sản xuất ngày một phát triển, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngày một quan tâm đến hiệu quả hoạt động của đơn vị mình. Trong nền kinh tế thị trường, đối với bất kì đơn vị sản xuất kinh doanh nào thì lợi nhuận bao giờ cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Để phấn đấu đạt mức lợi nhuận cao và ổn định đòi hỏi các doanh nghiệp phải cố gắng trên tất cả các mặt hoạt động bao gồm tăng doanh thu, cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản xuất… Do vậy nếu căn cứ vào việc phân tích đánh giá lợi nhuận của một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, chúng ta có thể đánh giá được một cách toàn diện về các mặt ưu nhược điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp đó.
Xuất phát từ những lý do trên, trong thời gian thực tập tại công ty Điện lực Bắc Giang, em đã chọn đề tài “1 số biện pháp tăng lợi nhuận tại công ty Điện lực Bắc Giang “để làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LỢI NHUẬN CỦA DOANH NGHIỆP
Khái niệm và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm
Tuỳ thuộc vào quan điểm và góc độ xem xét, đã có những quan điểm khác nhau về lợi nhuận:
Các nhà kinh tế học cổ điển trước K.Marx phần lớn đều cho rằng “cái phần trội lên trong giá bán với chi phí sản xuất chính là lợi nhuận”.
Theo K.Marx thì “Giá trị thặng dư hay cái phần trội lên nằm bên trong toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó có lao động thặng dư hay lao động không được trả công đã được vật hoá thì tôi gọi la lợi nhuận”.
Các nhà kinh tế học xã hội chủ nghĩa (XHCN) trước đây cho rằng lợi nhuận dưới chế độ XHCN là thu nhập thuần tuý của xã hội XHCN. Sau này họ coi: “Lợi nhuận của quá trình hoạt động sản xuất la phần chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ sản phẩm hàng hoá’ dịch vụ và chi phí bỏ ra để đạt được mức thu nhập đó”.
Các nhà kinh tế học hiện đại như Samuelson và Nordhaus phát biểu: “Lợi nhuận là một khoản dôi ra, bằng tổng số thu nhập trừ đi số chi” hay nói một cách cụ thể hơn, lợi nhuận được định nghĩa là sự chênh lệch giữa tổng thu nhập của môt doanh nghiệp với tổng chi phí của nó”. Còn theo Đavi Begg, Stanley Fíher thì “lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu so với chi phí:
Như vậy ta co thể đưa ra khái niệm tổng quát về lợi nhuận như sau:
Lợi nhuận là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí.
Trong phần này, chúng ta chỉ quan tâm đến khái niệm lợi nhuận kế toán của công ty. Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, la môt trong những chỉ tiêu quan trọng nhất đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong kì báo cáo.
Tuy nhiên đối với các nhà quản lý doanh nghiệp, họ thường chỉ quan tâm đến khái niệm lợi nhuận kế toán ở chỗ nó tính đến tất cả các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hoá.
1.1.2. Vai trò của lợi nhuận
1.1.2.1. Đối với bản thân doanh nghiệp
Trong cơ chế bao cấp cũ, đối với những ngưồi quản lý doanh nghiệp vai trò của lợi nhuận không được đề cao. Bản thân các doanh nghiệp không quan tâm đến lợi nhuận. Đối với họ, việc tạo ra được lợi nhuận hay không không quan trọng, tất cả lợi nhuận đều phẩi nộp vào ngân sách nhà nước, nếu lỗ thì đã có ngân sách nhà nước bù. Nhưng từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần kinh tế mới ra đời, cùng với sự xoá bỏ cơ chế bao cấp, mọi doanh nghiệp đều phải cạnh tranh gay gắt. Doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại khi tạo ra được lợi nhuận. Hơn nữa lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính cuối cùng phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Kể từ lúc bắt đầu tìm kiếm và nghiên cứu thị trường, đầu tư máy móc tiến hành sản xuât sản phẩm cho đến giai đoạn tiêu thụ sản phẩm, ban lãnh đạo doanh nghiệp phải tổ chức và quản lý có hiệu quả thì doanh nghiệp mới tạo ra được lợi nhuận. Chỉ khi quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tạo ra được lợi nhuận thì những người sở hữu nó mới có cơ sở để tiếp tục tái đầu tư, mở rộng sản xuất. Ngược lại, nếu doanh nghiệp làm ăn yếu kém, hoạt động không hiệu quả dẫn tới thua lỗ, các nhà đầu tư sẽ mất niềm tin và rời bỏ doanh nghiệp. Kết cục phá sản bị thay đổi chủ sở hữu là tất yếu.
1.1.2.2. Đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân
Lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp là cơ sở để nhà nước tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Chỉ khi doanh nghiệp làm ăn có lãi, nhà nước mới có thể thu thuế, đây chính là một trong những nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước, là cơ sở để nhà nước thực thi chính sách tài khoá. Nhờ tạo ra được lợi nhuận, các doanh nghiệp không những tạo ra được nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước thông qua nộp thuế thu nhập mà các doanh nghiệp còn có thể tham gia đóng góp cho sự phát triển công bằng của xã hội bằng việc thực hiện các hoạt động nhân đạo và từ thiện.
Ngoài ra, lợi nhuận của doanh nghiệp chính là một trong những nhân tố cấu thành nên tăng trưởng của tổng thu nhập quốc dân. Thu nhập của doanh nghiệp càng cao thì mức đóng góp của nó vào tăng trưởng kinh tế càng lớn.
Một yếu tố cuối cùng không thể bỏ qua chính là vai trò tái đầu tư mở rồng sản xuất của lợi nhuận đối với đất nước. Khi doanh nghiệp làm ăn có lãi, họ sẽ quyết định đầu tư vào việc nghiên cức cải tiến kĩ thuật sản xuất, tìm tòi ra những công nghệ mới.
1.1.2.3. Đối với người lao động
Người lao động chịu ảnh hưởng trực tiếp từ kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chúng ta có thể nhận thấy rằng, khi doanh nghiệp làm ăn phát đạt, tạo được một mức lợi nhuận ổn định thì đời sống của người lao động mới được ổn định. Việc trích lập các quĩ khen thưởng, quĩ phúc lợi được thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ. Điều này sẽ đảm bảo ổn định đời sống người lao động. Ngược lại nếu doanh nghiệp kinh doanh không hiệu quả chỉ đạt được mức lãi thấp hoặc thậm chí thua lỗ thì người chịu ảnh hưởng đầu tiên chính là người lao động. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp cùng một ngành cạnh tranh lẫn nhau rất gay gắt. Khi doanh nghiệp bị thua lỗ, nó khó có thể cải thiện được tình hình tài chính đơn thuần chỉ bằng cách tăng sản lượng sản phẩm bán ra một cách nhanh chóng. Do đó việc đầu tiên mà các nhà cải cách quản trị tài chính doanh nghiệp thường là tiến hành cắt giảm chi phí. Một trong những biện pháp cắt giảm chi phí hiệu quả nhất chính là cắt giảm số lượng người lao động trong doanh nghiệp. Ban giám đốc phải tiến hành nghiên cứu nhằm tiến hành tìm ra những bộ phận, những người lao động hoạt động không còn hiệu quả nữa. Hay nói theo cách khác, họ đóng góp vào doanh nghiệp ít hơn những gì ma doanh nghiệp trả cho họ. Như vậy cắt giảm nhân công thường là chiến lược mà các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp chọn sử dụng khi tình hình kinh doanh trở nên khó khăn.
Có lợi nhuận sẽ ổn định cuộc sống của người lao động, người lao động yên tâm cống hiến sức lao động của mình, đời sống của người lao động từng bước được cải thiện và nâng cao
1.2. Xác định lợi nhuận của doanh nghiệp
Đối với doanh nghiệp, trong khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nó cũng đồng thời phải tham gia các hoạt động khác như hoạt đông tài chính. Do đó, chúng ta phải tìm hiểu từng bộ phận cấu thành nên tổng lợi nhuận ma doanh nghiệp tạo ra trong một kì kế toán.
Tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp bao gồm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động bất thường. Đây chính là cơ sở để tính thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ngoài ra tuỳ theo yêu cầu cụ thể của phân tích tài chính mà các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp quan tâm đến các kết quả lợi nhuận khác nhau:
+ Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT) = Doanh thu thuần – Giá vốn hàng bán – Chi phí bán hàng – Chi phí quản lỳ doanh nghiệp.
+ Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận trước thuế - Thuế TNDN
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, trong đó có những nhân tố thuộc về chính bản thân doanh nghiệp nhưng cũng có những nhân tố khách quan tác động vào quá trình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, làm cho doanh nghiệp không đạt được lợi nhuận trong kỳ như dự tính. Các nhân tố đó bao gồm:
1.3.1. Các nhân tố về phía doanh nghiệp
1.3.1.1. Tính chất của hàng hoá mà doanh nghiệp cung cấp
Theo quan điểm của kinh tế học, hàng hoá mà doanh nghiệp cung cấp ra thị trương gồm 3 loại: hàng xa xỉ, hàng thông thường và cấp thấp
Doanh nghiệp cung cấp hàng hoá xa xỉ
Hàng hoá xa xỉ là những hàng hoá có độ co dãn cầu của thu nhập lớn hơn 1. Trong một nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, mức tăng thu nhập khả dụng của người tiêu dùng cũng tăng nhanh. Khách hàng sẽ tiêu thụ ít hàng hoá cấp thấp trong khi chỉ tiêu nhiều hơn cho các hàng hoá xa xỉ. Như vậy doanh thu của doanh nghiệp tăng lên nhanh chóng và kiếm được nhiều lợi nhuận hơn.
Ngược lại, trong một nền kinh tế đang trên đà đi xuống, người dân sẽ tiêu thụ ít hàng hoá xa xỉ trong khi dành một phần đáng kể thu nhập cho việc tiêu dùng các chủng loại hàng hoá cấp thấp. Tình trạng này xảy ra bởi vì thu nhập khả dụng giảm đi trong khi người dân có tâm lý bi quan về nền kinh tế trong tương lai.
Doanh nghiệp cung cấp hàng hoá thông thường
Hàng hoá thông thường là những hàng hoá có độ co dãn giá của cầu lớn hơn 0 nhưng nhỏ hơn 1. Tăng trưởng kinh tế cũng có tác động cùng chiều lên hàng hoá thông thường như đói với hàng hoá cấp thấp. Tuy nhiên tăng trưởng kinh tế ko có ảnh hưởng mạnh mẽ lên việc tiêu thụ các loại hàng hoá thông thường. Do đó khi nền kinh tế tang trưởng bùng nổ, doanh thu của các doanh nghiệp cung cấp hàng hoá thông thường sẽ tăng nhưng không mạnh. Tương tự doanh thu của các doanh nghiệp trêncũng giảm nhưng không giảm mạnh khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái.
Doanh nghiệp cung cấp hàng hoá cấp thấp
Hàng hoá cấp thấp là những hàng hoá thiết yếu cho nhu cầu hàng ngày của con người và có hệ số co dãn giá của thu nhập nhỏ hơn 0. Hệ số co giãn giá của cầu nhỏ hơn 0 hàm ý rằng khi thu nhâp, khả dụng của người tiêu dùng tăng lên, người tiêu dùng sẽ tiêu thụ ít hơn những hàng hoá bị coi là cấp thấp như gạo tấm, vải thô…
Trong trường hợp này doanh thu của doanh nghiệp bị ảnh hưởng theo chiều ngược lại với chiều tăng trưởng kinh tế. Cụ thể là trong nền kinh tế bùng nổ, doanh thu của doanh nghiệp giảm mạnh do bán được ít sản phẩm hơn dẫn tới lợi nhuận giảm mạnh. Khi nền kinh tể rơi vào tình trạng suy thoái doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp đều tăng lên.
1.3.1.2. Quá trình tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá và dịch vụ
Vấn đề được đặt ra ở đây là sau khi ban lãnh đạo doanh nghiệp lựa chọn được qui mô sản xuất kinh doanh tối ưu, họ tiếp tục phải quyết định về một vấn đề kinh tế cơ bản là sản xuất như thế nào để đảm bảo được giá thành sản xuất ở mức thấp chi phí không tăng lên quá cao trong khi chất lượng sản phẩm vẫn được duy trì hoặc chát lưởng sản phẩm không ngừng được cải tiến trong khi tổng chi phí không tăng lên quá cao. Các doanh nghiệp phải lựa chọn các nhân tố đầu vào sao cho phù hợp với nhu cầu sản xuất của đơn vị, ngành nghề mình. Tổ chức quá trình sản xuất hàng hoá là quá trình thực hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố lao động đầu vào bao gồm nguyên, nhiên vật liệu, lao động, KHCN… Đây là quá trình sử dụng đầu vào một cách tối ưu để đảm bảo ổn định quà trình sản xuất sản phẩm. Quá trình này được thực hiện một cách đồng bộ, có khoa học hay không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến năng suất lao động người công nhân, đặc biệt là chất lượng sản phẩm làm ra cũng như chất lượng sản phẩm. Việc phấn đáu tìm mọi biện pháp để tổ chức tốt quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá là nhân tố có ý nghĩa quyết định để giảm chi phí sản xuất đối với từng yếu tố đầu vào, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận trong doanh nghiệp.
1.3.1.3. Quá trình tổ chức tiêu thụ hàng hoá dịch vụ trên thị trường
Sau khi hàng hoá dịch vụ đã được sản xuất, vấn đề còn lại của doanh nghiệp chính là quá trình tiêu thụ sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh thì một trong những mục tiêu hàng đầu là phải tiêu thụ hết sản phẩm hàng hoá trong thời gian ngắn. Doanh thu của doanh nghiệp chỉ có thể được ghi nhận khi người mua cam kết trả tiền. Bên cạnh đó việc tiêu thụ nhanh chóng các sản phẩm tồn kho sẽ làm giảm các chi phí của doanh nghiệp như chi phí lưu kho, đảm bảo được chất lượng hàng hoá bán ra, tránh tình trạng thất thoát. Để tổ chức tốt công tác tiêu thụ hàng hoá dịch vụ, các doanh nghiệp cần tổ chức tốt công tác Marketing bán hàng. Marketing bán hàng bao gồm việc doanh nhiệp phải ra quyết định về phân phối sản phẩm và xúc tiến bán hàng. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, việc sử dụng các kênh phân phối trung gian là điều gần như không thể tránh khỏi. Các trung gian thương mại hoạt động có hiệu quả hơn vì nó có mạng lưới bán hàng rộng khắp thị trường tiêu thụ. Các doanh nghiệp sản xuất sẽ tối thiểu hoá số lần tiếp xúc bán cần thiết để thoả mãn nhu cầu thị trường của họ. Nhờ các mối quan hệ tiếp xúc có sẵn, kinh nghiệm bán hàng đến người tiêu dùng, việc chuyên môn hoá và qui mô hoạt động mà những kênh phân phối hàng hoá trung gian sẽ giúp doanh nghiệp sản xuất tiết kiệm thời gian tiêu thụ. Trong một số trường hợp nhà sản xuất có thể tiến hành phân phối sản phẩm trực tiếp nhưng phần lớn các loại sản phẩm hàng hoá cần phải phân phối qua các trung gian thương mại theo nguyên tắc chuyên môn hoá và phân công lao đông trong xã hội.
Ngoài việc phải tiến hành việc lựa chọn các kênh phân phối, các doanh nghiệp thường phải tiến hành hoạt động Marketing xúc tiến hỗn hợp chính là truyền tin về sản phẩm hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp tới khách hàng để thuyết phục họ mua và sử dụng. Một số dạng chủ yếu của chiến lược Marketing hỗn hợp thường được các doanh nghiệp sử dụng là: quảng cáo (bao gồm mọi hình thức giới thiệu gián tiếp về những ý tưởng, hàng hoá hoặc dịch vụ), khuyến mại (những biện pháp tác động tức thời hay ngắn hạn để khuyến khích việc mua sản phẩm hay dịch vụ), tuyên truyền (quan hệ với công chúng), hay bán hàng cá nhân (giới thiệu về hàng hoá hay dịch vụ của người bán hàng qua cuộc đối thoại với một hoặc nhiều khách hàng), Marketing trực tiếp (sử dụng một hay nhiều công cụ truyền thông Marketing để ảnh hưởng đến quyết định trực tiếp của khách hàng).
1.3.2. Các nhân tố ngoài doanh nghiệp
1.3.2.1. Quan hệ cung cầu về hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường
Lợi nhuận của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh chịu ảnh hưởng trực tiếp và tổng hợp của tất cả các mặt, tất cả các khâu trong quá trình sản xuất kinh doanh như tìm hiểu nhu cầu thị trường, nguồn cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, công nghệ qui trình sản xuất để ra quyết định về sản lượng hàng hoá sản xuất. Nhưng trước hết lợi nhuận chịu sự tác động của cung cầu về chính hàng hoá của doanh nghiệp trên thị trường.
Nhu cầu về hàng hoá mà doanh nghiệp cung cấp trên thị trường là nhân tố quyết địnhtrong vấn đề ra quyết định về sản lượng sản xuất. Khi nắm bắt được nhu cầu của thị trường, doanh nghiệp sẽ có khả năng để xác định qui mô tối ưu nhằm tối đa hoá lợi nhuận, hay tối đa hoá doanh thu… Nhu cầu có khả năng thanh toán đối với hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp tạo đièu kiện thuận lợi trong việc tiến hành tận dụng tối đa công suất của máy móc, thiết bị. Đồng thời sản phẩm của doanh nghiệp sẽ được tiêu thụ nhanh, mạnh trên thị trường. do đó lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng nhanh chóng. Ngược lại, khi nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp trên thị trường chỉ ở mức thấp, doanh nghiệp chỉ có thể tiến hành hoạt động sản xuất cầm chừng. Công nhân chỉ có thể làm việc thay phiên nhau trong khi máy móc hoạt động với công suất thấp… Điều này sẽ dẫn tới một sự lãng phí, doanh thu thấp và lợi nhuận không đạt được mức kế hoạch đề ra, thậm chí có thể xảy ra tình trạng thua lỗ kéo dài dẫn đến phá sản.
1.3.2.2. Tỷ giá hối đoái
Trong xu thế toàn cầu hiện nay tỉ giá hối đoái đóng vai trò quan trọng đối với sự tồn tại và quá trình phát triển của doanh nghiệp. Trực tiếp hay gián tiếp, nó có ảnh hưởng rất lớn đến tổng doanh thu và tổng chi phí của doanh nghiệp, qua đó tổng lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng theo. Việc các ngoại tệ khác lên giá sẽ làm lợi cho doanh nghiệp. Hàng hoá xuất khẩu sẽ trở nên tương đối rẻ hơn so với hàng hoá cùng chủng loại ở nước ngoài. Vì lý do như vậy, người nước ngoài mua nhiều hàng của doanh nghiệp nước ta hơn, do đó các doanh nghiệp bán được nhiều hàng hoá hơn.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nhập khẩu cũng bị ảnh hưởng bởi biến động tỷ giá trên thị trường ngoại hối, nhất là đối với các doanh nghiệp sử dụng hầu hết các nguyên vật liệu nhập khẩu. Khi ngoại tệ lên giá so với đồng nội tệ, giá nguyên vật liệu đầu vào tăng lên tương ứng dẫn tới giá thành sản xuất cũng tăng theo. Kết quả là chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng mạnh trong khi doanh nghiệp khó có thể tăng giá bán sản phẩm của mình. Lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Khi ngoại tệ có xu hướng tăng giá mạnh, các khoản vay bằng ngoại tệ của doanh nghiệp để mua nguyên vật liệu và tài sản cố định càng làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp trở nên tồi tệ. Điển hình là vụ phá sản của hãng hàng không LaKer, Hãng đã vay rất nhiều bằng đồng USD trong khi hầu hết doanh thu của nó lại tính trên cơ sở của đồng bảng Anh. Khi đồng USD lên giá mạnh so vói đồng bảng Anh vào đầu những năm 1980, hãng hàng không Laker không chi trả được, và đã đi đến phá sản.
1.3.2.3. Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ
Chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của doanh nghiệp. Nếu chính phủ cho rằng một ngành nào đó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là đầu tàu trong phát triển kinh tế tương lai, ngành đó sẽ được lợi từ chính sách mà chính phủ đề ra. Các doanh nghiệp thuộc ngành đó sẽ được chính phủ tạo điều kiện ưu đãi trong quá trình hoạt động như giảm thuế, đảm bảo mua một lượng hàng hoá và dịch vụ cố định hàng năm, thậm chí chính phủ có thể áp dụng các chính sách bảo hộ như thuế nhập khẩu, hạn ngạch đối với hàng hoá cùng loại… Tuy nhiên, điều này cò thểddaanx đến một hệ quả xấu là các doanh nghiệp của cùng một ngành vận động hành lang để được bảo vệ.
1.4. Các tỷ suất lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.4.1. Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu (ROE).
Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu là một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất được dùng để đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong kì kế toán.
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế của doanh nghiệp vốn chủ sở hữu (có thể là cuối năm trên bảng cân đối kế toán hoặc bình quân cả năm).
Lợi nhuận sau thuế
ROE = x 100 (%)
Vốn CSH
ROE phản ánh kảh năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp. Nếu chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp quá thấp, các nhà đầu tư sẽ cảm thấy không hài lòng với thực trạng tài chính của doanh nghiệp và có thể ra quyết định rút vốn đầu tư. Chính vì vậy, tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu là một trong những hoạt động quan trọng nhất trong lĩnh vực hoat động quản lý tài chính của doanh nghiệp.
1.4.2. Tỷ suất lợi nhuận tổng tài sản (ROA).
Chỉ tiêu doanh lợi tổng tài sản là một chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
EBIT
ROA = x 100 (%)
Tổng tài sản
EBIT: thu nhập trước thuế và lãi vay
tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà các nhà tài chính lự