Căn cứ vào nội dung kinh tế của các khoản thu
- Thu thuế
- Thu phí, lệ phí ( cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp)
- Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước : thu từ lợi tức, từ hoạt động góp vốn kinh doanh cổ phần của nhà nước, thu hồi tiền cho vay ( gốc + lãi) của nhà nước, thu hồi vốn đầu tư của nhà nước tại các cơ sở kinh tế bán hoặc đấu giá doanh nghiệp nhà nước.
- Thu từ bán – cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
- Thu từ hoạt động hợp tác lao động với nước ngoài.
- Thu khác ( tiền phạt, tịch thu, tịch biên tài sản)
14 trang |
Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2562 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số dự báo về thu ngân sách Nhà nước trong thời gian tới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU 1
B. NỘI DUNG
I. Lý luận chung về ngân sách nhà nước
1.1. Ngân sách nhà nước
1.2. Thu ngân sách nhà nước
II. Thực trạng thu ngân sách nhà nước Việt Nam
2.1. Các nhân tố tác động đến thu NSNN Việt Nam
2.2. Thu NSNN trước khi Việt Nam gia nhập WTO
2.3. Thu NSNN từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay
2.4. Nguyên nhân
III. Một số dự báo về thu NSNN trong thời gian tới
3.1. Một số dự báo về thu NSNN VIệt Nam trong thời gian tới
3.2. Những giải pháp tăng thu NSNN
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước (NSNN) là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể trong xã hội phát sinh trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung quan trọng nhất của Nhà nước – quỹ ngân sách nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước về mọi mặt.
1.2. Thu ngân sách nhà nước
1.2.1. Khái niệm
Thu ngân sách nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể trong xã hội, phát sinh trong quá trình nhà nước huy động, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước về mọi mặt.
1.2.2. Phân loại thu ngân sách nhà nước
a. Căn cứ vào nội dung kinh tế của các khoản thu
Thu thuế
Thu phí, lệ phí ( cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp)
Thu từ hoạt động kinh tế của nhà nước : thu từ lợi tức, từ hoạt động góp vốn kinh doanh cổ phần của nhà nước, thu hồi tiền cho vay ( gốc + lãi) của nhà nước, thu hồi vốn đầu tư của nhà nước tại các cơ sở kinh tế bán hoặc đấu giá doanh nghiệp nhà nước.
Thu từ bán – cho thuê tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
Thu từ hoạt động hợp tác lao động với nước ngoài.
Thu khác ( tiền phạt, tịch thu, tịch biên tài sản)
b. Căn cứ vào tính chất phát sinh các khoản thu
Thu thường xuyên: các khoản thu phát sinh thường xuyên cùng với nhịp độ hoạt động nền kinh tế, thường mang tính chất bắt buộc.
Thu không thường xuyên: các khoản thu chi phát sinh vào những thời điểm nhất định, không phát sinh liên tục.
c. Căn cứ vào tính chất cân đối ngân sách nhà nước
Thu trong cân đối ngân sách nhà nước: là những khoản thu được xây dựng và thực hiện trong mối quan hệ cân đối với chi ngân sách nhà nước, thường ổn định lâu dài, được lập dự toán.
Thu ngoài cân đối ngân sách nhà nước: là những khoản thu được xác định và thực hiện khi ngân sách nhà nước mất cân đối hay bôi chi
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thu ngân sách nhà nước
Thu nhập GDP bình quân đầu người : là 1 chỉ tiêu phản ánh khả năng tăng trưởng và phát triển của một quốc gia, phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của một nước, nó là nhân tố khách quan quyết định mức thu của NSNN
Tỷ suất doanh lợi của nền kinh tế: là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của đầu tư phát triển kinh tế. Tỷ suất doanh lợi càng lớn thì nguồn tài chính càng lớn, như vậy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tăng cả về quy mô và hiệu quả, đây là cơ sở nâng cao tỷ suất thu cho NSNN
Khả năng xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên ( dầu mỏ và khoáng sản). Đối với các nước có nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào phong phú thì xuất khẩu tài nguyên sẽ đem lại nguồn thu lớn cho NSNN. Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến số thu của ngân sách.
Mức độ trang trải các khoản chi phí của nhà nước. Mức độ phụ thuộc vào các yếu tố:
Quy mô và hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Những nhiệm vụ kinh tế xã hội mà nhà nước đảm nhận trong từng thời kỳ, từng giai đoạn.
Chính sách sử dụng kinh phí của nhà nước
Tổ chức bộ máy thu nộp: tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đạt hiệu quả cao, chống được thất thu do trốn lậu thuế sẽ là nhân tố tích cực làm giảm tỷ suất thu mà vẫn thoả mãn được các nhu cầu chi tiêu của NSNN.
Các nhân tố khác.
1.2.4. Các nguyên tắc thiết lập hệ thống thu ngân sách nhà nước
Nguyên tắc ổn định lâu dài: trong hệ thống kinh tế bình thường cần có được ổn định mức thu, ổn định sắc thuế và không gây xáo trộn lớn đối với nền kinh tế. Theo nguyên tắc này cần lựa chọn các đối tượng thuế ít có biến động. Điều này nhằm tạo điều kiện để kế hoạch hoá ngân sách nhà nước và kích thích người sản xuất đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nguyên tắc đảm bảo công bằng: việc thiết lập hệ thống thuế phải có quan điểm công bằng đối với mọi người chịu thuế, không phân biệt địa vị xã hội, thành phần kinh tế, phải dựa trên khả năng của người chịu thuế. Để đảm bảo điều này cần kết hợp 2 loại thuế: trực thu và gián thu.
Nguyên tắc rõ ràng, chắc chắn: Các điều luật các sắc thuế phải rõ ràng, cụ thể ở từng mức thuế, cơ sở đánh thuế… để tránh tình trạng lách luật trốn thuế.
Nguyên tắc giản đơn: mỗi sắc thuế cần hạn chế số lượng thuế suất, xác định rõ mục tiêu chính, không đề ra quá nhiều mục tiêu trong một sắc thuế.
Nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế: cần có sự phù hợp về đối tượng tính thuế, phương pháp thu nộp…
II. THỰC TRẠNG THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
2.1.Thực trạng các nhân tố tác động đến thu NSNN ở Việt Nam
2.1.1. Thu nhập GDP bình quân đầu người
Trong 22 năm qua, kể từ khi đổi mới đường lối kinh tế, nền kinh tế nước ta đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, nhưng chủ yếu là tăng trưởng theo chiều rộng. Trong những năm 1998 - 2002, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 6,2%/năm, nhưng yếu tố năng suất tổng hợp chỉ đóng góp 1,4%; trong những năm 2003 - 2008, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 7,89%/năm, nhưng yếu tố năng suất tổng hợp cũng chỉ đóng góp 2,07%. Sở dĩ như vậy là do chất lượng nguồn lao động của nước ta thấp; máy móc, thiết bị và công nghệ lạc hậu; năng lực tổ chức, quản lý còn nhiều mặt yếu kém.
Theo thống kê của Bộ tài chính, năm 2009 GDP vào khoảng 1660 nghìn tỷ đồng, GDP bình quân đầu người đạt 19,278 triệu đồng/người/năm (1064 USD)
Mặc dù chịu nhiều tác động từ suy thoái kinh tế thế giới như thu hẹp thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, lao động… rồi thiên tai, dịch bệnh trong nước nhưng Việt Nam vẫn đạt mức tăng trưởng 5,32%, đứng vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao.
Tuy nhiên mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta là tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng, năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh tranh còn thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và lao động giá rẻ để đẩy mạnh xuất khẩu thô. Nhưng đến nay những yếu tố đó đã bị khai thác tới đỉnh điểm; xuất khẩu của nước ta đã đạt tới 70% GDP và nhập khẩu chiếm tới 90% GDP, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 160% GDP. Do đó, tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế thế giới đối với tăng trưởng kinh tế của nước ta vừa rộng, vừa sâu với những diễn biến khó lường cả trước mắt và trong tương lai khi nền kinh tế thế giới hồi phục đà tăng trưởng, nhất là những biến động về giá cả của thị trường thế giới và khuynh hướng bảo hộ mậu dịch gia tăng bằng rất nhiều thủ đoạn khó tiên liệu, thêm vào đó việc điều hành tỷ giá và thị trường ngoại hối chưa thật linh hoạt, dẫn đến tình trạng găm giữ USD, cán cân thanh toán tổng thể đã bị thâm hut. Bội chi ngân sách tăng và chính sách tiền tệ nới lỏng luôn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao trở lại.
2.1.2. Khả năng xuất khẩu tài nguyên thiên nhiên
Việt Nam được coi là một nước giàu tài nguyên hydro-carbon (dầu mỏ và than đá), trong đó xuất khẩu của các mặt hàng này chiếm 31,2% tổng lợi nhuận từ xuất khẩu (IMF, 2007; GSO, 2007). Nếu tính cả xuất khẩu các loại khoáng sản khác, đặc biệt là kim loại như titan, đồng, kẽm...thì tỷ lệ đóng góp của tài nguyên thiên nhiên tới tổng xuất khẩu cũng như tổng thu nhập quốc dân là rất lớn, thu NSNN chiếm đến trên 20% là từ dầu thô.
Tổng lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2010 đạt 4,9 triệu tấn với kim ngạch 3 tỉ USD, giảm 45,6% về lượng và giảm 20,1% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 7,7% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của cả nước 7 tháng đầu năm 2010.
2.1.3. Tổ chức bộ máy thu nộp
Mọi nguồn thu từ thuế và lệ phí ở Việt Nam đều do Quốc hội Việt Nam hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội đặt ra bằng luật và pháp lệnh, và được thu bởi Tổng cục Thuế Việt Nam thông qua các cơ quan thu là các cục thuế, chi cục thuế, phòng thuế, đội thuế, bởi Tổng cục Hải quan Việt Nam thông qua các cơ quan của nó là cục hải quan, chi cục hải quan, và các cán bộ chuyên môn được ủy quyền khác ở khắp các địa phương trong cả nước. Đối với các phí và lệ phí, các cơ quan thu thuộc các bộ, ngành, chính quyền địa phương có liên quan được ủy quyền thu.
Hệ thống quản lý thu thuế ở Việt Nam được đánh giá là kém hiệu quả, trong khi mức độ tuân thủ của người nộp thuế thấp. Sự quá tải của hệ thống quản lý thuế hiện nay không chỉ cho thấy sự gia tăng về quy mô và tính phức tạp của hệ thống thuế mà còn là sự lạc hậu của mô hình quản lý thuế cũ không theo kịp với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế. Do hệ thống thuế hiện nay quá phức tạp và rườm rà trong các thủ tục hành chính đã làm tăng các chi phí tuân thủ thuế của người nộp thuế.
Một số điều tra cho thấy các doanh nghiệp hàng năm phải mất trên 1.000 giờ cho các thủ tục liên quan đến thuế. Nếu nhân con số này với số doanh nghiệp nộp thuế sẽ thấy được một sự lãng phí ghê gớm về mặt nguồn lực mà nền kinh tế phải bỏ ra hàng năm.
2.1.4. Tỷ suất doanh lợi trong nền kinh tế
Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn duy trì mức tăng cao trong tỷ suất lợi nhuận, trong khi đó các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, đặc biệt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ đạt được một mức tỷ suất lợi nhuận khiêm tốn tính trên doanh thu, trung bình khoảng 11,4% chưa tương xứng với lợi thế và sự đầu tư của Nhà nước, một số doanh nghiệp còn hoạt động kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ…
Đây là một điểm yếu trong nền kinh tế của nước ta, nền kinh tế tập trung xuất khẩu thô, chưa làm nâng cao giá trị hàng hoá xuất khẩu, dẫn đến làm giảm tỷ suất lợi nhuận, thu NSNN vừa bị giảm sút lại phải chi ra để bù lỗ cho các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả này.
2.2. Thu NSNN trước khi Việt Nam gia nhập WTO
2000
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
TỔNG THU
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
Thu trong nước (Không kể thu từ dầu thô)
50,95
51,29
51,67
54,77
52,49
52,03
55,17
55,13
Thu từ doanh nghiệp nhà nước
21,7
20,24
18,88
16.85
17,12
16,58
15,94
16,43
Thu từ doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
5,22
5,87
6,53
7,91
8,36
9,25
9,94
10,52
Thu từ khu vực ngoài quốc doanh
6,39
6,27
6,8
6,95
7,42
7,9
9,87
10,44
Thu khác
17,64
18,91
19,46
23,06
19.59
18,3
19,42
17,74
Thu từ dầu thô
25,93
21,4
24,15
25,43
29,16
29,82
24,37
21,31
Thu từ hải quan
20,89
25,49
22,23
18,29
16,7
15,32
19,11
21,82
Thu viện trợ không hoàn lại
2,23
1,82
1,95
1,51
1,66
2,83
1,35
1,74
Bảng: Cơ cấu thu NSNN Việt Nam từ năm 2000 đến 2008
(Nguồn Niên giám thống kê Bộ Tài chính)
Dầu thô là khoản thu có đóng góp lớn nhất vào tổng thu ngân sách nhà nước hàng năm (29% tổng thu ngân sách nhà nước vào các năm 2005- 2006). Nhưng đây là khoản thu không vững chắc vì còn phụ thuộc giá dầu thế giới và nguồn dự trữ dầu
Thu xuất nhập khẩu chiếm tỉ trọng tương đối lớn (khoảng 18-23%/ năm) trong tổng thu ngân sách nhà nước tuy nhiên đang có xu hướng giảm về tỷ trọng, năm 2001 đạt 25,49% nhưng đến năm 2006 giảm còn 15,32%
Thu từ thành phần kinh tế nhà nước có xu hướng giảm trong khi khi thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực ngoài quốc doanh có xu hướng tăng lên.
2.3. Thu NSNN từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay
Sau khi gia nhập WTO, thu NSNN Việt Nam có những thay đổi đáng kể: Thu ngân sách nhà nước không chỉ tăng về tổng số thu mà nguồn thu cũng đã dần ổn định với việc tăng tỷ trọng thu trong nước, giảm thu từ tài nguyên thiên nhiên, trong đó:
Thu trong nước vẫn chiếm phần lớn đóng góp vào tổng thu ngân sách nhà nước và đang có xu hướng tăng. Trong đó khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng khá mạnh với 10,52% năm 2008, gấp đôi tỷ trong khu vực này năm 2000 với 5.22%
Thu từ dầu thô có xu hướng giảm từ 29,82% năm 2006 xuống còn 24,37% năm 2007 và 21,31% vào năm 2008
Thu từ xuất nhập khẩu có xu hướng tăng cả về hai chỉ tiêu: thuế xuất nhập khẩu, tiêu thu đặc biệt; và thuế Giá trị gia tăng
Nhưng nhìn chung số thu NSNN từ nội lực nền kinh tế vẫn còn thấp, thu NSNN còn chứa nhiều yếu tố đột biến, bất ổn định.
2.4. Nguyên nhân
Ngày 11-1-2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức kinh tế thế giới WTO. Việc gia nhập WTO cho thấy, Việt Nam đã sẵn sàng cho việc hội nhập hoàn toàn và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, đánh dấu vị thế mới của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời cũng tạo những điều kiện thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Tuy nhiên, cùng với những thuận lợi có được khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức và phải cam kết thực hiện nhiều quy định mang tính chất ràng buộc của tổ chức này. Ngoài các nội dung thuộc lĩnh vực kinh tế, Việt Nam phải cam kết xóa bỏ những quy định mang tính chất mệnh lệnh, hành chính ảnh hưởng đến kinh tế thị trường; điều chỉnh pháp luật để phù hợp với luật pháp quốc tế…Đó là những nhân tố ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế nói chung và NSNN nói riêng
Thứ nhất, nhân tố có tác động lớn đến thu NSNN sau khi gia nhập WTO là xuất nhập khẩu.
Một số dự báo cho rằng: gia nhập WTO Việt Nam buộc giảm thuế suất thuế nhập khẩu theo cam kết với Tổ chức Thương mại Thế giới (số dòng thuế đã công bố cắt giảm là 1.812 với mức thuế suất giảm bình quân 14,5%). Thêm vào đó, hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài sẽ có mức giá thấp hơn trước đây khiến thị phần của hàng hoá sản xuất trong nước bị thu hẹp, làm giảm số thu thuế nội địa.
Tuy nhiên, có thể thấy chính sự kiện gia nhập WTO đã tạo ra các yếu tố kích thích tăng trưởng kinh tế, đó là: các nhà sản xuất nội địa tích cực hơn trong đổi mới quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm, gia tăng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, gia tăng xuất khẩu, thị trường nội địa ngày càng sôi động hơn… đồng thời nền kinh tế Việt Nam sẽ có điều kiện tăng trưởng nhanh hơn do có điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ra các nước thành viên WTO và chúng ta cũng được hưởng việc giảm thuế nhập khẩu của các nước này; gia tăng kim ngạch nhập khẩu từ các nước thành viên WTO dẫn tới tăng thu từ thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế GTGT hàng nhập khẩu, nhiều nguồn thu mới sẽ được tạo ra và do đó quy mô của ngân sách sẽ tăng.
Thứ hai, tác động đến tăng trưởng kinh tế: sau hơn 3 năm trở thành thành viên WTO, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng về tăng trưởng kinh tế, đây là nhân tố khách quan quyết định mức động viên ngân sách nhà nước
Trong năm 2007, nền kinh tế Việt Nam chuyển biến hết sức tích cực. Tăng trưởng GDP tăng 8,48%, xuất khẩu đạt 21,5%, sản lượng công nghiệp tăng mạnh với mức 10,6%, số vốn cam kết đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt con số kỷ lục lên đến 20,3 tỷ USD, thị trường chứng khoán phát triển mạnh với tỷ lệ vốn hoá lên đến hơn 40% GDP. Việt Nam đang và ngày càng thu hút lượng lớn các nhà đầu tư lớn trên thế giới tới đầu tư, và trở thành một trong những quốc gia đang bứt phá mạnh mẽ về kinh tế. Mức động viên của NSNN tăng lên 25,2% so với GDP.
Năm 2008, tác động của hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra theo chiều trái ngược nhau. Giá nguyên liệu tăng cao tạo sức ép lạm phát cao và tăng trưởng kinh tế thấp hơn. Kinh tế các nước bạn hàng chính bước vào suy thoái hoặc tăng trưởng chậm lại cũng là yếu tố ảnh hướng xấu đến xuất khẩu và FDI của Việt Nam, do đó ảnh hưởng tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Do những tác động tiêu cực ảnh hưởng lớn hơn, truyền dẫn nhanh hơn vào nền kinh tế nên tăng trưởng GDP đã chững lại chỉ đạt 6,2%, tuy nhiên động viên NSNN vẫn ở mức cao là 26,8% GDP do ảnh hưởng của tăng giá dầu. Nhưng theo nhiều chuyên gia nhận định nếu không có hội nhập kinh tế quốc tế, tăng trưởng kinh tế sẽ thấp hơn.
Năm 2009 tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, tăng trưởng GDP tiếp tục giảm, chỉ đạt 5,2%. Tuy đây là mức sụt giảm đáng kể từ năm 2009 đến nay nhưng vẫn được xem là tương đối cao so với mức tăng trưởng thấp hoặc âm của nhiều nước trên thế giới trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Mức động viên ngân sách đạt 23,3% GDP.
Thứ ba, việc gia nhập WTO có tác động tích cực đối với không chỉ toàn bộ nền kinh tế mà còn với từng ngành sản xuất dịch vụ cụ thể. Tác động rõ nét nhất là chính sách thương mại, đầu tư trở nên minh bạch hơn và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, cam kết về cải cách kinh tế trong nước trong Nghị định thư gia nhập cũng đã góp phần tạo nên làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam (năm 2007 huy động vốn đầu tư toàn xã hội đạt 505 nghìn tỷ VND, bằng 44% GDP, sau ba năm gia nhập WTO, lượng vốn FDI đổ vào Việt Nam là hơn 114 tỉ đô la Mỹ (vốn đăng ký), cao gấp 4,5 lần mục tiêu đề ra cho cả giai đoạn năm năm 2006-2010. Tương tự, vốn thực hiện trong ba năm qua, 2007-2009, cũng đạt 29,5 tỉ đô la, cũng vượt chỉ tiêu đề ra cho năm năm.
Kết quả này cho thấy môi trường đầu tư kinh doanh ở Việt Nam đã ngày càng thuận lợi hơn, phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào tiến trình đổi mới cũng như vào triển vọng và tiềm năng phát triền kinh tế của Việt Nam, triển vọng và tiềm năng phát triển dài hạn kinh tế Việt Nam vẫn được đánh giá cao trong bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều dấu hiệu bất ổn.
Tuy nhiên, vốn đầu tư mới chỉ tập trung ở những ngành công nghiệp chế biến., chế tạo trong khi đó, các ngành công nghiệp nhẹ, nơi Việt Nam có lợi thế so sánh, chỉ thu hút được khối lượng khiêm tốn vốn đầu tư. Thu hút đầu tư vào những ngành có giá trị gia tăng cao như tài chính, ngân hàng, viễn thông và công nghệ cao vẫn còn hạn chế. Nhưng nhìn chung các kết quả tích cực trong lĩnh vực thương mại và đầu tư đã đóng góp ở mức độ nhất định vào tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách nhà nước.
Thứ tư, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là sự cam kết mạnh mẽ về sự phát triển kinh tế thị trường và điều đó đòi hỏi phải có những cải cách mạnh mẽ, triệt để hơn nữa đối với các thủ tục hành chính, tạo môi trường thông thoáng để các tổ chức, doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất, kinh doanh.
Xuất phát từ yêu cầu này, Chính phủ đã ban hành rất nhiều văn bản điều chỉnh nhiều lĩnh vực có liên quan, tạo cơ sở pháp lý và những điều kiện cần thiết để thực hiện trong đó đáng chú ý là Quyết định số 30/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 – 2010 của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/1/2007, nhằm tuân thủ cam kết của Việt Nam với WTO và xây dựng một nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, hiệu quả, có hiệu suất cao, góp phần phòng chống tham nhũng và lãng phí, đơn giản hóa thủ tục hành chính 30%. Ba năm qua, trên con đường hội nhập quốc tế, nền hành chính quốc gia đã được cải tiến theo hướng hiện đại và bước đầu đã thu được những thành tựu và có tác động tích cực đến nền kinh tế.
III. MỘT SỐ DỰ BÁO VỀ THU NSNN TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Một số dự báo
STT
Chỉ tiêu
Dự toán
Năm 2010
Năm 2011
A
Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước
461,500
567,000
1
Thu nội địa
294,700
351,100
2
Thu từ dầu thô
66,300
73,000
3
Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu
95,500
122,100
4
Thu viện trợ không hoàn lại
5,000
6,500
Dự toán ngân sách nhà nước năm 2010 và 2011
(Nguồn: Bộ Tài chính)
Trong thời gian tới, thu NSNN vẫn tiếp tục thay đổi theo hướng tích cực, với tỷ trọng thu từ yếu tố tài nguyên giảm; tỷ trọng thu từ nội lực ngành kinh tế tăng. Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia kinh tế, thu NSNN khó tăng mạnh do các doanh nghiệp vẫn đang phải tiếp tục đối phó với nhữ