Nông nghiệp là một ngành đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Với 80% dân cư làm nông nghiệp và 75% lao động trong ngành nông nghiệp nên sự tồn và phát triển của nó luôn là vấn đề quan trọng được Đảng, Nhà nước, các cấp các ngành quan tâm và tạo điều kiện phát triển.
Thực tiễn quá trình sản xuất nông nghiệp của nước ta trải qua hàng ngàn năm sản xuất theo kinh nghiệm, tuy có những bước tiến quan trọng, nhưng về căn bản vẫn là nền sản xuất nhỏ lẻ, kĩ thuật lạc hậu mang nặng tính độc canh, tự cung, tự cấp là chính.
Những năm gần đây, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã có sự phát triển vượt bậc, đạt được những thành tựu đáng khích lệ với năng suất và sản lượng ngày càng tăng. Có sự chuyển biến tích cực đó là nhờ vào sự đổi mới chính sách kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước đó là quyết định tiến hành công cuộc đổi mới chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước. Nhất là từ khi có chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương Đảng (1981) về “cải cách công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp”, đặc biệt nghị quyết 10 của Bộ chính trị Trung ương Đảng(1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” . Với Nghị quyết này hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ góp phần quan trọng vào sự phát triển của nông nghiệp nước ta trong những năm qua.
Tuy nhiên bên cạnh mặt đạt được, vẫn còn tồn tại những khó khăn. Đây là tất yếu khách quan.
Đó là nền kinh tế hàng hoá đã tạo ra sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, vấn đề chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn ngày một rõ. Hiện nay, hơn 70% dân số nước ta ở nông thôn đây là nguồn lao động dồi dào nhưng chưa được sử dụng hợp lý, tuy nhiên nó cũng là một thách thức về vấn đề giải quyết việc làm tạo thu nhập cho người lao động. Bởi vì hiện nay ruộng đất có hạn mà dân số ngày càng tăng lên. Do vậy việc duy trì thu nhập đã khó nâng cao, thu nhập cho hộ nông dân lại càng khó hơn bởi nông thôn thì sản suất nông nghiệp vẫn còn là chủ yếu.
Phương Trung là một xã của huyện Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây, là cửa ngõ thủ đô, có lợi thế trong giao lưu phát triển kinh tế. Nhìn chung, so với nhiều địa phương khác, mặt bằng kinh tế hộ của xã không phải là quá thấp. Xã không còn hộ đói, hộ nghèo giảm liên tục. Bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được hiện nay mâu thuẫn tiềm ẩn bên trong kinh tế hộ qua nhiều năm cũng đã bộc lộ gay gắt thể hiện thông qua: thất nghiệp gia tăng, năng suất lao động thấp, phân hoá giàu nghèo một cách sâu sắc, những yếu kém trong sản suất kinh doanh.
Chính vì vậy giải quyết vấn đề thu nhập cho hộ nông dân nói chung và cư dân xã Phương Trung nói riêng là yêu cầu cần thiết và cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp, các ngành, các đoàn thể.
Với lý do nêu trên, để góp phần thúc đẩy kinh tế hộ của xã Phương Trung phát triển, được sự phân công của khoa kinh tế và phát triển nông thôn Trường đại học Nông nghiệp I - Hà Nội, chúng tôi đã tiến hành lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp chủ yếu nâng cao thu nhập cho hộ nông dân xã Phương Trung, huyện Thanh oai, tỉnh Hà Tây ”.
95 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2830 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp chủ yếu nâng cao thu nhập cho hộ nông dân xã Phương Trung, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần i
Mở Đầu
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một ngành đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Với 80% dân cư làm nông nghiệp và 75% lao động trong ngành nông nghiệp nên sự tồn và phát triển của nó luôn là vấn đề quan trọng được Đảng, Nhà nước, các cấp các ngành quan tâm và tạo điều kiện phát triển.
Thực tiễn quá trình sản xuất nông nghiệp của nước ta trải qua hàng ngàn năm sản xuất theo kinh nghiệm, tuy có những bước tiến quan trọng, nhưng về căn bản vẫn là nền sản xuất nhỏ lẻ, kĩ thuật lạc hậu mang nặng tính độc canh, tự cung, tự cấp là chính.
Những năm gần đây, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã có sự phát triển vượt bậc, đạt được những thành tựu đáng khích lệ với năng suất và sản lượng ngày càng tăng. Có sự chuyển biến tích cực đó là nhờ vào sự đổi mới chính sách kinh tế đúng đắn của Đảng và Nhà nước đó là quyết định tiến hành công cuộc đổi mới chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước. Nhất là từ khi có chỉ thị 100 của Ban bí thư Trung ương Đảng (1981) về “cải cách công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp”, đặc biệt nghị quyết 10 của Bộ chính trị Trung ương Đảng(1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp” . Với Nghị quyết này hộ nông dân đã trở thành đơn vị kinh tế tự chủ góp phần quan trọng vào sự phát triển của nông nghiệp nước ta trong những năm qua.
Tuy nhiên bên cạnh mặt đạt được, vẫn còn tồn tại những khó khăn. Đây là tất yếu khách quan.
Đó là nền kinh tế hàng hoá đã tạo ra sự phân hoá giàu nghèo ngày càng sâu sắc, vấn đề chênh lệch thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn ngày một rõ. Hiện nay, hơn 70% dân số nước ta ở nông thôn đây là nguồn lao động dồi dào nhưng chưa được sử dụng hợp lý, tuy nhiên nó cũng là một thách thức về vấn đề giải quyết việc làm tạo thu nhập cho người lao động. Bởi vì hiện nay ruộng đất có hạn mà dân số ngày càng tăng lên. Do vậy việc duy trì thu nhập đã khó nâng cao, thu nhập cho hộ nông dân lại càng khó hơn bởi nông thôn thì sản suất nông nghiệp vẫn còn là chủ yếu.
Phương Trung là một xã của huyện Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây, là cửa ngõ thủ đô, có lợi thế trong giao lưu phát triển kinh tế. Nhìn chung, so với nhiều địa phương khác, mặt bằng kinh tế hộ của xã không phải là quá thấp. Xã không còn hộ đói, hộ nghèo giảm liên tục. Bên cạnh những thành tựu quan trọng đã đạt được hiện nay mâu thuẫn tiềm ẩn bên trong kinh tế hộ qua nhiều năm cũng đã bộc lộ gay gắt thể hiện thông qua: thất nghiệp gia tăng, năng suất lao động thấp, phân hoá giàu nghèo một cách sâu sắc, những yếu kém trong sản suất kinh doanh...
Chính vì vậy giải quyết vấn đề thu nhập cho hộ nông dân nói chung và cư dân xã Phương Trung nói riêng là yêu cầu cần thiết và cần có sự quan tâm đúng mức của các cấp, các ngành, các đoàn thể.
Với lý do nêu trên, để góp phần thúc đẩy kinh tế hộ của xã Phương Trung phát triển, được sự phân công của khoa kinh tế và phát triển nông thôn Trường đại học Nông nghiệp I - Hà Nội, chúng tôi đã tiến hành lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp chủ yếu nâng cao thu nhập cho hộ nông dân xã Phương Trung, huyện Thanh oai, tỉnh Hà Tây ”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu chung
Chúng tôi tập trung nghiên cứu một vấn đề bao trùm đó là đánh giá thực trạng phát triển kinh tế nông hộ ở xã Phương Trung. Từ đó hướng tới một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy và duy trì sự ổn định của kinh tế nông hộ.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Tìm hiểu cơ sở lý luận về kinh tế hộ nông dân
Đánh giá đúng thực trạng về thu nhập của hộ nông dân ở địa phương và tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến thu nhập từng loại hộ nông dân trong xã.
Đưa ra những định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho các nông hộ trên địa bàn xã.
1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
1.3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các hộ nông dân thông qua điều tra, phỏng vấn để thấy được thực trạng về thu nhập của các hộ nông dân trong xã từ đó đặt ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho các nông hộ trong điều kiện hiện nay.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1. Phạm vi về thời gian
Thời gian nghiên cứu từ năm 2000 - 2002
Thời gian thực tập tốt nghiệp từ 10/02/2003 đến ngày 10/06/2003
1.3.2.2. Phạm vi về không gian
Địa bàn nghiên cứu là xã Phương Trung - huyện Thanh Oai - tỉnh Hà Tây.
1.3.2.3. Phạm vị nội dung
Do điều kiện về thời gian cũng như kiến thức có hạn, đề tài chỉ đi sâu tập trung nghiên cứu những tồn tại trong kinh tế nông hộ, từ đó đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thu nhập cho hộ nông dân ở xã.
Phần II
Tổng quan về tài liệu nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản
2.1.1.1.Khái niệm về hộ
Xoay quanh vấn đề về hộ vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau như:
Tại hội thảo về quản lý nông trại tại Hà Lan năm 1980 trên quan điểm sản xuất đến các đại biểu thống nhất cho rằng:
“Hộ là đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan tới sản xuất, tái sản xuất, đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác”.
Về phương diện thống kê Liên Hợp Quốc cho rằng:
“Hộ là những người sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung ngân quỹ”.
Khi nghiên cứu quá trình đô thị hoá Châu á, GS.MC.GEE (1989) nguyên giám đốc học viện Châu á thuộc đại học Colombia - Hoa Kỳ có quan điểm thiên về thu nhập. Theo ông, thành viên của hộ không nhất thiết phải là sống chung dưới một mái nhà miễn là họ có đóng góp vào ngân quỹ chung.
Dưới góc độ nhân chủng học RAUL(1989) khẳng định: “Hộ là tập hợp những người chung huyết tộc có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình sáng tạo ra sản phẩm để bảo tồn chính mình”.
Một số học giả khác như: MEGE (1989); Nguyễn Văn Huân; Mai Văn Vũ (1990)...Qua nghiên cứu thực tế đã khẳng định các thành viên của hộ không nhất thiết có chung huyết tộc.
Trên thực tế, cũng có sự thống nhất về khái niệm hộ, song với các ý kiến nêu trên, khái niệm hộ được khái quát như sau: “Hộ là nhóm người chung huyết tộc hoặc không chung huyết tộc, họ không nhất thiết cùng sống chung dưới một mái nhà nhưng có chung nguồn thu nhập và ăn chung. Các thành viên của hộ cũng tiến hành các hoạt động sản xuất và có cùng chung ngân quỹ”.
“Ăn chung” được hiểu theo nghĩa là các thành viên trong hộ được phân phối bởi nguồn thu nhập chung, cái mà họ đã cùng sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo GS. Đào Thế Tuấn (1996): “Hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc sống chung hay không sống chung với những người khác huyết tộc trong cùng một mái nhà. Ăn chung và có chung ngân quỹ, có phân phối chung nguồn thu nhập mà các thành viên của họ sáng tạo ra”.
2.1.1.2. Khái niệm hộ nông dân
Theo GS .Đào Thế Tuấn (1996): “Hộ nông dân là những người có phương tiện kiếm sống từ ruộng đất, chủ yếu sử dụng lao động gia đình cho sản xuất, luôn nằm trong hệ thống kinh tế rộng hơn nhưng về cơ bản được đặc trưng bởi sự tham gia từng thành phần vào thị trường với mức độ hoàn hảo không cao”.
Quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá đang và sẽ còn tiếp tục diễn ra làm thay đổi cơ cấu kinh tế nông thôn từ đó hoạt động kinh tế của nông hộ cũng có những biến đổi sâu sắc. Xã hội chắc chắn sẽ xuất hiện những nông hộ vì lý do nào đó không có đất canh tác mà phải đi làm thuê tạo thu nhập. Cũng có hộ chuyển sang nghề khác và cho thuê đất sản xuất của mình theo kiểu “Phát canh thu tô”. Tất cả những hộ này đều được coi là hộ nông dân. Ngược lại, những hộ không kinh doanh kiếm lợi từ ruộng đất mà hoạt động kinh tế trong lĩnh vực ngành nghề phi nông nghiệp tuy sống ở nông thôn nhưng không được coi là hộ nông dân.
2.1.1.3. Khái niệm kinh tế hộ nông dân
Là tổ chức cơ sở của nền sản xuất xã hội trong đó các nguồn lực như: đất đai, lao động, nguồn vốn và các tư liệu sản xuất khác của nông hộ là nguồn lực chung để tiến hành sản xuất.
2.1.2. Thu nhập của hộ nông dân
Trong cơ chế thị trường, hoạt động sản xuất kinh doanh của nông hộ diễn ra rất đa dạng, ngoài sản xuất nông nghiệp hộ còn tham gia vào các ngành nghề khác như: Công nghiệp nông thôn, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, xây dựng và nghề rừng. Chính vì thu nhập của hộ nông dân bao gồm toàn bộ những kết quả của các ngành trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ và một số ngành nghề khác như: sửa chữa, sản xuất nguyên vật liệu, chế biến nông sản...mang lại.
2.1.3.Những đặc trưng cơ bản của kinh tế hộ nông dân
Kinh tế hộ nông dân có 6 đặc trưng cơ bản là:
Thứ nhất: Có sự thống nhất chặt chẽ giữa quyền sở hữu với quá trình quản lý và sử dụng các yếu tố sản xuất. Bởi vì sở hữu trong nông hộ là sở hữu chung, mọi thành viên đều có thể sử dụng và tự quản lý các yếu tố sản xuất như vốn, đất đai để tạo ra của cải đóng góp vào ngân quỹ chung của nông hộ.
Thứ hai: Lao động quản lý và lao động trực tiếp có sự gắn bó chặt chẽ với nhau và được chi phối bởi quan hệ huyết thống. Thông thường chủ hộ thường là người quản lý, điều hành và trực tiếp tham gia sản xuất. Với đặc điểm này, việc tổ chức sản xuất trong nông hộ diễn ra tương đối linh hoạt và thống nhất, cơ cấu tổ chức rất đơn giản.
Thứ ba: Quy mô sản xuất nhỏ, hơn nữa các nguồn lực có thể được huy động hay thu hồi dễ dàng nên các nông hộ hoàn toàn có khẳ năng thích nghi và tự điều chỉnh tốt. Gặp điều kiện thuận lợi, nông hộ có thể phát huy tối đa nguồn lực cho sản xuất ngay cả khi giảm khẩu phần ăn tất yếu của mình. Trong hoàn cảnh bất lợi, sản xuất được thu hẹp, thậm chí có thể quay về với sản xuất giản đơn.
Thứ tư: Quan hệ huyết thống, họ tộc, văn hoá và đặc biệt là lợi ích kinh tế chung của các thành viên...Tất cả nằm đan xen trong một trật tự tổ chức hết sức đa dạng và phức tạp, song chúng cùng tác động tạo nên sự đồng tâm, hiệp lực giữa các thành viên, họ cùng tự giác lao động để phát triển kinh tế mà không cần đến thưởng phạt. Điều này không thể có ở các đơn vị kinh tế khác.
Thứ năm: Kinh tế hộ được đặc trưng bởi sự tham gia từng phần vào thị trường. Chính vì thế, trên thị trường đầu vào, hộ chỉ bán từng phần nguồn lực của mình như: đất đai, sức lao động... với thị trường đầu ra, nông hộ chỉ mua những gì mà họ không có khả năng tự túc như: quần áo, thuốc men hay các đồ gia dụng khác...
Thứ sáu: Kinh tế hộ nông dân sử dụng sức lao động, nguồn vốn...của mình là chủ yếu. Chỉ khi nào quy mô sản xuất vượt quá nguồn lực sẵn có, các hoạt động mua bán hay đi thuê mới diễn ra.
Với các đặc trưng trên, có thể khẳng định rằng kinh tế nông hộ luôn là hình thức tổ chức kinh tế rất thích hợp với sản xuất nông nghiệp. Bởi vì, đối tượng sản xuất của nông nghiệp là các sinh vật sống rất cần sự chăm sóc trực tiếp và thường xuyên của con người. Người lao động trong nông hộ vời ý thức trách nhiệm cao, có sự gắn bó mật thiết với cây trồng vật nuôi nên hoàn toàn có thể đảm nhận công việc đó.
2.1.4. Vai trò của kinh tế hộ nông dân trong điều kiện hiện nay
Trong nền kinh tế quốc dân, sự tồn tại và phát triển của các thành phần kinh tế, các phương thức sản xuất là hoàn toàn khách quan. Kinh tế nông hộ là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Từ trước đến nay kinh tế hộ dù phát triển dưới bất kỳ hình thức nào cũng đều là nhân tố quan trọng giúp cho nền kinh tế quốc dân phát triển. Kinh tế nông hộ có sắc thái riêng về kinh tế nhân văn và xã hội.
ở các nước trên thế giới góp phần không nhỏ các nông sản phẩm cho đời sống xã hội.
ở Việt nam, giá trị sản phẩm nông nghiệp còn chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế. Mặt khác đối với nông nghiệp sản xuất hàng hoá chưa cao nên kinh tế nông hộ càng có vai trò hết sức to lớn, nó thúc đẩy nông nghiệp và nông thôn phát triển. Theo ước tính thì kinh tế hộ nông dân đã cung cấp cho xã hội khoảng 90% sản lượng thịt và cá, 90% sản lượng lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, cây ăn quả. Đẩy mạnh xuất khẩu và góp phần sử dụng tốt hơn tài nguyên đất, lao động, vốn, rừng, biển...nâng cao thu nhập cho người nông dân. Từng bước phát triển các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn theo tinh thần mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới là CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn.
Trong cơ chế phát triển của nền kinh tế chúng ta đang chủ trương xoá bỏ thế độc canh tiến đến đa canh cây trồng vật nuôi và phát triển ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn theo điều kiện từng vùng, từng bước xoá bỏ cơ chế sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá theo hình thức trang trại gia đình để tăng khả năng đầu tư cũng như các tiềm lực khác, góp phần nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, phát triển các ngành nghề dịch vụ, nâng cao thu nhập cho người nông dân, từng bước “thành thị hoá” trong lòng nông thôn để phát triển một nền nông nghiệp mạnh và bền vững.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Quá trình phát triển kinh tế nông hộ ở Việt Nam
2.2.1.1. Thời kỳ Pháp thuộc
Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 do thực dân và phong kiến chiếm đa số ruộng đất, vì vậy mà đại bộ phận nông dân phải đi làm thuê cho địa chủ phong kiến, chỉ có một bộ phận rất ít nông dân sản xuất hàng hoá theo kiểu cổ truyền với kinh nghiệm và kĩ thuật thô sơ.
2.2.1.2 Giai đoạn từ 1955 đến 1959
Sau khi giành được chính quyền, Đảng ta đa thực hiện cải cách ruộng đất với khẩu hiệu: “Người cày có ruộng” chính nhờ chính sách cải cách ruộng đất này cộng với công tác khuyến nông đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế nông hộ phát triển. Trong giai đoạn này các nông hộ đã biết hợp tác với nhau để trao đổi kinh nghiệm, kĩ thuật và đã trở thành các tổ đổi công, mầm mống của hợp tác xã ra đời.
2.2.1.3 Giai đoạn từ năm 1960 đến 1980
Cuối năm 1958 nước ta đã tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp và chỉ đến cuối năm 1960 đã có hơn 84% nông dân tham gia vào hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. Và bắt đầu từ đây môi trường sản xuất kinh doanh của hộ đã thay đổi hoàn toàn. Hiến pháp năm 1959 đã xác định: Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, mọi quan hệ trao đổi, buôn bán đều bị cấm nghiêm ngặt.
Giai đoạn này sản xuất nông nghiệp được tổ chức chủ yếu theo các hợp tác xã và các nông lâm trường quốc doanh.Trong hợp tác xã nông nghiệp được tập thể dành cho 5% đất canh tác để làm “kinh tế phụ gia đình” hay “kinh tế phụ xã viên”. Với 5% đất canh tác nhưng đã sản xuất ra 48 % tổng giá trị sản lượng nông nghiệp, 95% sản lượng chăn nuôi, 93% sản lượng rau quả và chiếm 50 - 60% thu nhập của hộ. Tuy không công khai nhưng kinh tế nông hộ đã thực sự là cơ sở để đảm bảo cho kinh tế tập thể tồn tại. Và chỉ trong vòng hai năm, miền Bắc đã cơ bản thực hiện song phong trào hợp tác hoá. Kết quả là 2,4 triệu hộ nông dân chiếm 85% tổng số hộ và 76% ruộng đất cùng với 4400 HTX được thành lập. Số nông hộ còn lại thì luôn bị HTX chèn ép. Và cũng chính từ thời điểm này kinh tế nông hộ phụ thuộc vào HTX và nó phát triển theo một xu hướng bất lợi. Kết quả là chỉ ngay sau khi thống nhất đất nước thì sản xuất đã đi vào con đường trì trệ, tổng sản lượng lương thực đã liên tục giảm gần 2 tạ/ha, bình quân lương thực đầu người giảm từ 334 kg xuống còn 261kg.
2.2.1.4. Giai đoạn từ 1981 đến 1987
Trước thực trạng của sản xuất nông nghiệp đã đẩy nền kinh tế nước ta đến nguy cơ khủng hoảng toàn diện. Trước tình hình này Hội nghị TW 6 tháng 9 năm 1979 xác định: “Những vấn đề kinh tế cấp bách” nhằm tìm giải pháp cho nông nghiệp phát triển. Và chính trong thời gian này đã có nhiều địa phương tiến hành
“ khoán chui ”, “khoán gọn” đến từng nhóm người và đến từng người lao động. Ví dụ như: ở Hải Phòng, Vĩnh Phú, Thái Bình... và hình thức này tỏ ra có hiệu quả hơn HTX rõ rệt.
Cũng chính trên cơ sở này mà qua một thời gian đấu tranh và phân tích kĩ lưỡng và ngày 13 tháng 1 năm 1981 Ban bí thư TW Đảng đã ban hành chỉ thị 100CT/ TW nêu rõ mục đích của việc thực hiện cơ chế khoán mới nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế, lôi kéo mọi người hăng hái tham gia sản xuất, sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực và cơ bản nâng cao thu nhập cho xã viên, tích luỹ cho HTX và tăng thu cho nhà nước. Cũng chính do được đầu tư vốn, sức lao động trên ruộng đạt được khoán và hưởng trọn phần vượt khoán nên kinh tế nông hộ được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Kết quả là từ năm 1981 đến năm 1985 sản lượng lương thực tăng 20,7%, năng suất tăng 232%, diện tích cây công nghiệp tăng 62,1%, thu nhập quốc dân trong nông nghiệp tăng 5,6% và lương thực bình quân đầu người liên tục tăng qua các năm: từ 273kg năm 1981 lên 304kg năm 1985. Kinh tế nông hộ trong giai đoạn này tuy được tự chủ chút ít nhưng vẫn còn phụ thuộc vào tập thể và vẫn bị mô hình này chi phối.
Và chỉ sau một thời gian ngắn khoán 100 bắt đầu bộc lộ những hạn chế. Bởi vì, tuy là khoán nhưng HTX vẫn đảm nhiệm đến 5 khâu, còn xã viên chỉ đảm nhận 3 khâu, HTX vẫn dựa trên công hữu về tư liệu sản xuất, sản xuất tập trung và phân phối theo công điểm. Mức độ khoán lại do HTX quy định nên đã xảy ra tình trạng quan liêu như: mức khoán thì quá cao không xuất phát từ thực tế làm cho xã viên không có lợi trong việc đầu tư thâm canh vì vậy mà xã viên trong giai đoạn cuối này mong muốn mất mùa hơn là được mùa, cho nên sản xuất nông nghiệp lại đi vào khủng hoảng.
2.2.1.5.Giai đoạn từ 1988 đến nay
Trước những hạn chế khó khăn của chỉ thị 100CT/TW các địa phương tiên phong như: Hải Phòng, Vĩnh Phú lại làm thử hình thức giao hẳn ruộng đất cho hộ nông dân sử dụng, đảm bảo cho họ có quyền tự quyết trên mảnh đất của mình, kết quả đã khả quan hơn rất nhiều.
Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm nhiều địa phương ngày 5/4/88 Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất trong nông thôn trong từng hộ gia đình.Theo tinh thần Nghị quyết thì HTX, các tập đoàn sản xuất thực hiện chế độ tự quản, tự chịu trách nhiệm về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Thừa nhận kinh tế nông hộ là thành phần kinh tế cơ bản của nông nghiệp và nông thôn.
Hộ gia đình nông dân được giao quyền sử dụng đất lâu dài khẳng định quyền tự chủ của hộ gia đình nông dân, hộ nông dân có quyền tự chủ trong việc đầu tư thâm canh. Chính từ đây kinh tế nông hộ mới trở thành tự chủ, nông dân mới dồn hết tâm huyết và trí lực của mình vào sản xuất làm giàu cho gia đình, cho xã hội trên mảnh đất của mình. Trong giai đoạn này HTX cũng được thay đổi HTX được thành lập trên cơ sở tự nguyện góp sức, góp vốn của người nông dân và được quản lý dân chủ. Kết quả là chỉ sau một năm thực hiện Nghị Quyết bộ mặt nông nghiệp nông thôn nước ta đã thay đổi rõ rệt. Từ một nước thiếu đói thường xuyên phải nhập lương thực thì năm 1989 lần đầu tiên chúng ta đã có 1,4 tấn gạo xuất khẩu. Và đến nay chúng ta đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thư hai trên thế giới. Ngày nay, trong các Nghị Quyết Đại hội VII, VIII và gần đây là Đại hội IX đã đưa ra những chủ trương phát triển 5 thành phần kinh tế cùng với 3 chương trình kinh tế lớn của Nhà Nước, hộ nông dân luôn được khẳng định là chủ thể sản xuất với chứng nhận quyền sử dụng đất, mở rộng cho vay vốn đến hộ nông dân cũng như tín dụng nông thôn và việc xoá đói giảm nghèo... Làm tăng lòng tin, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của nông hộ đã làm cho kinh tế nông hộ có những thay đổi to lớn và ngày càng phát huy rõ vai trò của mình.
2.2.2. Thực trạng và xu hướng phát triển kinh tế nông hộ ở Việt Nam
2.2.2.1. Thực trạng
Sau hơn 15 năm đổi mới kinh tế nông hộ nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng, khẳng định rõ mình là một đơn vị kinh tế tự chủ, một trong những thành phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. Kết thúc năm 2001 về cơ bản kinh tế nông hộ đã góp phần giải quyết vấn đề “An ninh lương thực ” trên phạm vi toàn quốc, khẳng định vị trí thứ hai của nước xuất khẩu gạo.
ở hầu hết các vùng, các miền đều xuất hiện những nông hộ làm ăn giỏi vươn lên giàu có, đời sống văn hoá xã hội nông thôn đã từng bước được nâng cao, kinh tế nông hộ ngày càng đa dạng hơn về thành phần. Nhiều hộ đã chuyển sang đa ngành chứ không còn tình trạng nông nghiệp thuần tuý nữa. Cơ cấu thu nhập trong nông hộ cũng thay đổi, xã hội nông thôn ngày càng ổn định và phát triển.
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu đạt được kinh tế nông hộ còn bộc lộ những yếu điểm sau:
Nguồn lực trong nông hộ có quy mô nhỏ: ruộng đất bình quân đầu người thấp. Đặc biệt là ở vùng đồng