Một số giải pháp hoàn thiện dịch vụ vận tải biển tại công ty Sông Thu

Trong những năm qua tình hình thế giới có nhiều biến động và gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Song với đường lối đúng đắn của Đảng và sự chỉ đạo của chính phủ nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 7,5% trong giai đoạn 2001-2005 và xếp thứ hai trên thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các Công ty mở rộng sản xuất kinh doanh. Nắm bắt được xu thế này trong những năm qua Bộ Quốc Phòng cũng như Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng đã không ngừng đầu tư cho các đơn vị thành viên mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhận được sự giúp đỡ của Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng cùng với sự nổ lực của bản thân Công ty Sông Thu đã không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh và đạt được những thành tựu to lớn. Sau thời gian đi thực tập tôi đã quyết định chọn đề tài:” Một số giải pháp hoàn thiện dịch vụ vận tải biển tại công ty Sông Thu”. Một lĩnh vực mà Công ty đang có nhu cầu mở rộng trong thời gian tới. Trong quá trình thực tập được sự hướng dẫn, chỉ đạo rất tận tình của các anh chị trong phòng KH-KD và của thầy Trần Văn Nghiệp. Song do sự hiểu biết của bản thân về Công ty chưa được sâu sắc và toàn diện, với kinh nghiệm thực tế chưa nhiều do vậy trong báo cáo thực tập không thể tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, rất mong các Anh, Chị trong phòng, thầy cô và độc giả quan tâm đến đề tài này thông cảm.

doc56 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2724 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp hoàn thiện dịch vụ vận tải biển tại công ty Sông Thu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU. Trong những năm qua tình hình thế giới có nhiều biến động và gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Song với đường lối đúng đắn của Đảng và sự chỉ đạo của chính phủ nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, với tốc độ tăng trưởng xấp xỉ 7,5% trong giai đoạn 2001-2005 và xếp thứ hai trên thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đây là điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các Công ty mở rộng sản xuất kinh doanh. Nắm bắt được xu thế này trong những năm qua Bộ Quốc Phòng cũng như Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng đã không ngừng đầu tư cho các đơn vị thành viên mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhận được sự giúp đỡ của Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng cùng với sự nổ lực của bản thân Công ty Sông Thu đã không ngừng mở rộng sản xuất kinh doanh và đạt được những thành tựu to lớn. Sau thời gian đi thực tập tôi đã quyết định chọn đề tài:” Một số giải pháp hoàn thiện dịch vụ vận tải biển tại công ty Sông Thu”. Một lĩnh vực mà Công ty đang có nhu cầu mở rộng trong thời gian tới. Trong quá trình thực tập được sự hướng dẫn, chỉ đạo rất tận tình của các anh chị trong phòng KH-KD và của thầy Trần Văn Nghiệp. Song do sự hiểu biết của bản thân về Công ty chưa được sâu sắc và toàn diện, với kinh nghiệm thực tế chưa nhiều do vậy trong báo cáo thực tập không thể tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy, rất mong các Anh, Chị trong phòng, thầy cô và độc giả quan tâm đến đề tài này thông cảm. Em xin chân thành cảm ơn các anh, chị trong phòng KH-KD cùng ban lãnh đạo Công ty và thầy Trần Văn Nghiệp đã giúp em hoàn thành báo cáo thực tập này. Em xin chân thành cảm ơn! Đà Nẵng, tháng 5 năm 2007 PHẦN I. DỊCH VỤ VẬN TẢI BIỂN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ. Vận tải đường biển ra đời khá sớm so với các phương thức vận tải khác. Ngay từ thế kỷ thứ VI trước công nguyên con người đã biết lợi dụng biển làm các tuyến đường giao thông để giao lưu các vùng, các miền, các quốc gia khác nhau trên thế giới. Cho đến nay vận tải đường biển được phát triển mạnh mẽ và trở thành ngành vận tải hiện đại trong hệ thống vận tải quốc tế. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VẬN TẢI ĐƯỜNG BIỂN. Vai trò. Hiện nay vận tải đường biển giữ vị trí rất quan trọng trong chuyên chở hàng hoá trên thị trường thế giới. Vận tải đường biển là ngành vận tải chủ chốt so với các phương tiện vận tải khác trong chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu, nó đảm nhận chuyên chở gần 80% tổng khối lượng hàng hoá trong buôn bán quốc tế. Nguyên tắc “ tự do đi biển” đã tạo thuận lợi cho ngành vận tải đường biển và nhờ đó tàu thuyền mang mọi quốc tịch được tự do hoạt động trên các tuyến thương mại quốc tế. Khối lượng chuyên chở hàng hoá bằng đương biển quốc tế tăng nhanh qua các giai đoạn. Đặc điểm. Vận tải đường biển có thể phục vụ chuyên chở tất cả các loại hàng hoá trong buôn bán quốc tế.Vận tải đường biển thích hợp trên cự ly rất dài, khối lượng lớn. Tuy nhiên vận tải đường biển không thích hợp vớ chuyên chở hàng hoá đòi hỏi thời gian giao hàng nhanh, trong chuyên chở đường biển gặp nhiều rủi ro và nguy hiểm. Các tuyến đường trên biển hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên. Do đó không đòi hỏi phải đầu tư nhiều về tiền vốn, nguyên vật liệu, sức lao động để xây dựng và bảo quản các tuyến đường vận tải đưồng biển. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho giá thành vận tải đường biển thấp hơn so với các phương tiện vận tải khác. Năng lực chuyên chở của vận tải biển là rất lớn. Nhìn chung năng lực chuyên chở của công cụ vận tải đường biển ( tàu biển) không bị hạn chế như các công cụ vận tải khác. Trên cùng một tuyến đường có thể tổ chức chạy nhiều chuyến tàu trong cùng một thời gian cho cả hai chiều. Trong những năm gần đây do tiến bộ của khoa học kỹ thuật, trọng tải trung bình của tàu biển tăng nhanh và có xu hướng tăng lên đối với tất cả các nhóm tàu. Ưu điểm nổi bật của tàu biển là giá thành thấp ( bằng 1/10 so với đường hàng không). Trong chuyên chở hàng hoá giá thành vận tải đường biển chỉ cao hơn giá thành vận tải đường ống còn thấp hơn nhiều so với các phương tiện khác.Nguyên nhân chủ yếu là trọng tải tàu biển lớn, cự ly chuyên chở trung bình dài, năng suất lao động cao. Với tiến bộ khoa học kỹ thuật và hoàn thiện cơ chế quản lý trong ngành vận tải đường biển, hiệu quả kinh tế chắc chắn ngày một tăng lên. Từ những đặc điểm trên của vận tải đường biển ta có thể rút ra kết luận một cách tổng quát về phạm vi áp dụng như sau: Vận tải đường biển thích hợp với chuyên chở hàng hoá trong buôn bán quốc tế. Vận tải đường biển thích hợp với chuyên chở hàng hoá có khối lượng lớn, chuyên chở cự ly dài nhưng không đòi hỏi thời gian giao hàng nhanh chóng. Tác dụng của vận tải đường biển. 3.1. Vận tải đường biển là yếu tố không tách rời thương mại quốc tế. Thương mại quốc tế và vận tải nói chung, vận tải đường biển nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ và hữu cơ với nhau. Vận tải được phát triển trên cơ sở sản xuất và trao đổi hàng hoá. Ngược lại vận tải phát triển sẽ làm giảm giá thành chuyên chở, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thị trường tiêu thụ quốc tế, tự do hoá thương mại, thúc đẩy sản xuất phát triển. Thực tiễn trong thương mại cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hoá có vai trò quan trọng và liên quan chặt chẽ đến hợp đồng vận tải thậm chí bao gồm cả hợp đồng vận tải bởi vì hợp đồng mua bán hàng hoá là cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ giữa người bán và người mua còn hợp đồng vận tải điều chỉnh quan hệ giữa người thuê chở và người chuyên chở mà người thuê chở là người bán hoặc người mua lại phụ thuộc vào quy định của hợp đồng mua bán. 3.2. Vận tải đường biển thúc đẩy buôn bán quốc tế phát triển. Khối lượng hàng hoá lưu chuyển giữa hai nước phụ thuộc vào nhiều điều kiện: tiềm năng kinh tế của hai nước, sự chuyên môn hóa và hợp tác hóa sản xuất của mỗi nước trong phân công lao động quốc tế, tình hình chính trị, điều kiện và khả năng vận tải giữa hai nước đó. Do tiến bộ khoa học kỹ thuật và tăng năng suất lao động trong ngành vận tải mà giá cước trung bình trong vận tải quốc tế có xu hướng giảm xuống.Vận tải đường biển có đặc điểm cước phí rẻ vì vậy vận tải đường biển làm tăng khối lượng luân chuyển hàng hêntrong buôn bán quốc tế, nói khác đi nó thúc đẩy buôn bán quốc tế phát triển. 3.3. Vận tải đường biển phát triển góp phần làm thay đổi hàng hoá và cơ cấu thị trường buôn bán quốc tế. Trước đây vận tải đường biển chưa phát triển, công cụ vận tải thô sơ, sức chở của vận tải nhỏ, chi phí vận tải lại cao nên đã hạn chế việc mở rộng mua bán nhiều mặt hàng. Đặc biệt là mặt hàng nguyên, nhiên liệu. Việc buôn bán giữa các nước thời kỳ đó tập trung vào các mặt hàng thành phẩm. Sự ra đời của công cụ vận tải chuyên dùng có trọng tải lớn, đặc biệt là sự phát triển của vận tải đường biển, mạng lưới các tuyến đường phát triển đã cho phép hạ giá thành vận tải, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng chủng loại mặt hàng trong buôn bán quốc tế. Trong bản thân nhóm hàng lỏng cũng có sự thay đổi về cơ cấu: tăng trỷ trọng dầu thô, giảm tỷ trọng mặt hàng sản phẩm dầu mỏ và xuất hiện nhiều mặt hàng lỏng trong buôn bán quốc tế như: hơi đốt ở thể lỏng, rượu, bia, nước ngọt,...buôn bán các nhóm mặt hàng khô cũng đa dạng và phong phú hơn gồm hàng thành phần có bao bì, hàng khô có khối lượng lớn như: quặng sắt, than đá, ngũ cốc, các loại khoáng sản khác...,vận tải đường biển phát triển đã làm thay đổi cơ cấu hàng hóa trên thị trường thế giới. Trước đây khi vận tải đường biển còn chưa phát triển, hàng hóa chỉ có thể bán cho các nước lân cận, ở thị trường gần, ví dụ nhưViệt Nam bán hàng cho các nước Trung Quốc, Lào, Thái Lan... ngày nay vận tải đường biển đã phát triển, hàng hóa có thể được buôn bán ở bất kỳ thị trủờng nào trên thế giới. Vì vậy, vận tải đường biển góp phần thay đổi thị trường hàng hóa. Những nước xuất khẩu có khả năng tiêu thụ sản phẩm của mình ở những thị trường xa xôi. Ngược lại nước nhập khẩu có điều kiện lựa chọn thị trường cung cấp hàng hóa rộng rãi hơn. Sự mở rộng thị trường và thay đổi cơ cấu thị trường trong buôn bán quốc tế được thể hiện ở cự ly chuyên chở trung bình trong vận tải đường biển quốc tế ngày càng tăng lên. Năm 1980 cự ly chuyển chở trung bình trong vận tải đường biển quốc tế là 3.601 hải lý, năm 1985 là 3.967 và năm 1990 là 4.285 hảo lý( 1 hải lý = 1,85km). 3.4. Vận tải đường biển tác động đến cán cân thanh toán quốc tế. Vận tải đường biển có tác dụng ảnh hưởng tích cực hoặc làm xấu đi cán cân thanh toán, chức năng phục vụ thể hiện ở chỗ vận tải quốc tể đảm bảo nhu cầu chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu của mỗi nước. Chức năng kinh doanh thể hiện trong việc thực hiện xuất khẩu sản phẩm vận tải đường biển. Xuất khẩu sản phẩm vận tải là một hình thức xuất nhập khẩu vô hình rất quan trọng. Thu chi ngoại tệ về vận tải đường biển và các dịch vụ liên quan đến vận tải đường biển là một bộ phận quan trọng trong cán cân thanh toán quốc tế. Phát triển vận tải đặc biệt là phát triển đội tàu buôn có tác dụng tăng thêm nguồn thu ngoại tệ bằng cách hạn chế nhập khẩu sản phẩm vận tải. Do đó vận tải ảnh hưởng tích cực đến cán cân thanh toán quốc tế. Nếu vận tải đường biển của một nước không đáp ứng được nhu cầu chuyên chở hàng hóa ngoại thương thì phải chi ra một lượng ngoại tệ nhất định để nhập khẩu sản phẩm vận tải. Sự thiếu hụt trong cán cân xuất nhập khẩu sản phẩm vận tải ảnh hưởng đến cán cấn thanh toán quốc tế. Trái lại dư thừa cán cân thanh toán về vận tải có thể bù đắp một phần thiếu hụt trong cán cân mậu dịch nói riêng và cán cân thanh toán quốc tế nói chung. DỊCH VỤ VẬN TẢI. Khái niệm. Dịch vụ là một hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải quyết các mối quan hệ giữa khách hàng hoặc tài sản mà khách hàng sở hữu với người cung cấp mà không có sự chuyển giao quyền sỡ hữu. Vận tải là một hoạt động kinh tế có mục đích của con người nhằm thay đổi vị trí của hàng hoá và bản thân con người từ nơi này đến nơi khác bằng các phương tiện vận tải. Dịch vụ vận tải là dịch vụ mà trong đó người vận tải thực hiện yêu cầu của khách hàng theo sự thoả thuận để vận chuyển hàng hoá và bản thân con người từ nơi này đến nơi khác nhằm thu được lợi nhuận kinh tế. Căn cứ vào phạm vi sử dụng, vận tải được chia làm hai loại là vận tải công cộng và vận tải nội bộ. Đặc điểm dịch vụ vận tải. Vận tải là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt. Bên cạnh những đặc điểm chung giống như các ngành sản xuất vật chất khác, vận tải còn có những đặc điểm riêng biệt: Quá trình sản xuất trong vận tải là quá trình tác động về mặt không gian lên đối tượng chuyên chở chứ không phải là quá trình tác động về mặt kỹ thuật lên đối tượng lao động. Sản xuất trong vận tải không tạo ra sản phẩm mới, mà chỉ tạo ra một loại sản phẩm đặc biệt-sản phẩm vận tải. Sản xuất trong vận tải không làm thay đổi hình dạng kích thước và tính chất lý hóa của chúng. Sản phẩm của ngành vận tải cũng mang hai thuộc tính của hàng hoá là giá trị và giá trị sử dụng nhưng bản chất của nó là sự thay đổi vị trí của đối tượng chuyên chở. Sản phẩm vận tải không có hình dạng kích thước cụ thể, không tồn tại ngoài quá trình sản xuất ra nó. Sản phẩm vận tải không có khảng cách về thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng, nó được sản xuất và tiêu dùng cùng một lúc khi sản xuất kết thúc thì sản phẩm vận tải cũng được tiêu dùng ngay. Sản phẩm vận tải là vô hình. Vận tải không có khả năng dự trữ sản phẩm. Những nhân tố tác động đến dịch vụ vận tải biển. 3.1. Tuyến đường biển. Từ lâu loài người đã biết lợi dụng đại dương làm tuyến đường giao thông để chuyên chở hành khách và hàng hoá giữa các nước với nhau. Các tuyến đường vận tải trên biển hầu hết là những tuyến đường giao thông tự nhiên ( trừ việc xây dựng các hải cảng, kênh đào quốc tế) do đó không đòi hỏi phải đầu tư về tiền vốn, nguyên vật liệu, sức lao động để xây dựng và bảo quản các tuyến đường vận tải đường biển. Đây là những nguyên nhân làm cho giá thành vận tải đường biển thấp hơn so với các phương tiện khác. Năng lực chuyên chở của vận tải đường biển là rất lớn. Nói chung năng lực chuyên chở vận tải đường biển không hạn chế như các vận tải khác. Tuy nhiên đường biển luôn bị ảnh hưởng bởi các điều kiện tự nhiên:...Những rủi ro thiên tai, tai nạn bất ngờ trên biển thường gây ra những tổn thất rất lớn cho tàu, hàng hoá và sinh mạng con người. Những rủi ro, tổn thất trong vận tải đường biển đang được khắc phục dần bằng những phương tiện kỹ thuật hiện đại. 3.2. Cảng biển. Cảng biển gắn liền với sự phát triển của ngành hàng hải. Trước đây cảng biển chỉ được coi là nơi tránh gió to bão lớn của các loại tàu bè. Trang thiết bị của cảng lúc bấy giờ rất đơn giản và thô sơ. Ngày nay, cảng biển không chỉ là nơi bảo vệ an toàn cho tàu biển trước các hiện tượng thiên nhiên bất lợi mag trươc hết cảng biển là một đầu mối giao thông, một mắc xích quan trọng của quá trình vận tải. Cảng biển thực hiện các chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Do đó, kỹ thuật xây dựng trang thiết bị, cơ cấu tổ chức của cảng cũng khác nhau và ngày càng được hiện đại hóa. Cảng là nơi ra vào, neo đậu của tàu thuyền, là nơi phục vụ tàu và hàng hoá chuyên chở trên tàu, là đầu mối giao thông chuyên chở trong hệ thống vận tải. Dọc bờ biển Việt Nam hiện nay đã hình thành gần 80 hải cảng lớn, nhỏ với tổng năng lực thông qua cảng trên 50 triệu tấn/năm. Cảng biển có hai chức năng chủ yếu: Cảng phục vụ các công cụ vận tải đường biển, trước hết là tàu biển. Với chức năng cảng phải đảm bảo cho tàu bè ra vào và neo đậu an toàn, từ đó cảng có nhiệm vụ phục vụ các công việc cụ thể: Đưa đón tàu bè ra vào, bố trí nơi neo đậu, làm vệ sinh tàu, sữa chữa tàu, cung ứng các nhu cầu cần thiết cho tàu. Vì vậy hoạt động của cảng thường vượt ra ngoài phạm vi địa giới của cảng tức là trên phạm vi thành phố cảng. Ví dụ thành phố cảng Hải Phòng, thành phố cảng trở thành một trong những trung tâm công nghiệp thương mại dịch vụ và trung tâm dân cư đông đúc. Cảng có chức năng phục vụ hàng hóa, tại cảng biển quá trình chuyên chở hàng hóa được bắt đầu, kết thúc hoặc tiếp tục hành trình. Chức năng này được tập trung ở nhiệm vụ xếp dỡ hàng hóa lên xuống các công cụ vận tải. Ngoài ra cảng còn thực hiện nhiều nhiệm vụ khác liên quan đến hàng hóa như: bảo quản hàng hóa tại kho bãi, phân loại hàng hóa, sửa chữa bao bì, kí mã hiệu, kiểm tra số lượng, chất lượng, thủ tục giao nhận hàng hóa... Cảng biển được phân thành nhiều loại tuỳ theo tiêu chuẩn quy định, theo mục đích sử dụng: cảng buôn, cảng quân sự, cảng cá, cảng trú ẩn...Đối với cảng buôn được chia thành nhiều loại: cảng biển tự nhiên, cảng sông biển, cảng nội địa, cảng quốc tế, cảng tổng hợp, cảng chuyên dùng. Ở nước ta, trong những năm qua nhà nước đã ưu tiên và trực tiếp đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông vận tải đường biển. Trong đó có hệ thống cảng biển. Hệ thống cảng biển Việt Nam từng bước hiện đại hóa và cơ bản đáp ứng được nhu cầu đặt ra. 3.3. Trang thiết bị của cảng. Ranh giới của một cảng biển thường gồm hai phần: phần mặt nước và phần mặt liền. Trên mỗi phần diện tích của cảng có các công trình và các trang thiết bị nhất định. Trên phần mặt nước của cảng bao gồm: vũng tàu, luồng lạch. cầu tàu; phần dất liền chủ yếu có: khu vực kho bãi, hệ thống đường giao thông, khu vực nhà xưởng, khu làm việc của các cơ quan hải quan...cảng biển là công trình có hàng loạt trang thiết bị kỹ thuật để phục vụtàu và hàng hoá. Trang thiết bị của cảng bao gồm: - Thiết bị kỹ thuật phục vụ tàu ra vào, tàu chờ đợi, tàu neo đậu.nhóm thiết bị này gồm: luồng lạch, hệ thống phao tiêu, tín hiệu, phao nổi, cầu tàu... - Thiết bị phục vụ kỹ thuật, phục vụ công nghiệp xếp dỡ hàng hoá lên xuống công cụ vận tải và ở trong kho bãi của cảng. Thiết bị xếp dỡ là yếu tố kỹ thuật quan trọng nhất trong hpạt động sản xuất kinh doanh của cảng. Nó quyết định năng suất xếp dở, khả năng thông qua về tàu và hàng hoá của cảng. Hệ thống đường giao thông trong phạm vi cảng và cách nối liền các hệ thống vận tải thống nhất như thế nào quyết định phạm vi hậu phương phục vụ của cảng. Thông thường trong một cảng có hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thuỷ và công cụvận chuyển hàng từ vào hậu phương và ngược lại. Các thiết bị nổi trên phần mặt nước của cảng như: phao nổi, cầu nổi, cần cầu nổi, tàu hoa tiêu.... Các thiết bị kỹ thuật phục vụ cho công tác liên lạc, ánh sáng, cung cấp nước, nhà làm việc, câu lạc bộ thuỷ thủ...khi tổ chức chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu và thuê tàu, bắt buộc chúng ta phải nguyên cứu kỹ các đặt điểm của trang thiết bị cảng. 3.4. Phương tiện vận chuyển. Phương tiện vận chuyển bằng đường biển là tàu biển. Tàu buôn là tàu biển được dùng vào mục đích kinh doanh trong hàng hải. Tàu buôn gồm: tàu vận tải hàng hoá, tàu vận tải hành khách, tàu đánh cá, tàu hoa tiêu, tàu nghiên cứu khoa học... Trên thế giới trong những năm gần đây, đội tàu buôn tăng lên không ngừng về số lượng, trọng tải và thay đổi nhiều về chất lượng. Xu hướng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong đội tàu buôn thế giới được thể hiện trong việc thay đổi về động cơ và nhiên liệu dùng trong hàng hải. Tăng tỷ trọng tàu chạy bằng động cơ diêzen và giảm tỷ trọng tàu chạy bằng động cơ hơi nước. Đội tàu buôn thường được chuyên môn hoá và kết hợp với tổng hợp hoá. Sự ổn định nguồn hàng trong các tuyến chuyên chở đã tạo điều kiện cho việc chuyên môn hoá các loại tàu buôn như: Tàu chở dầu, tàu chở hơi đốt dạng lỏng, tàu container, tàu chở ôtô...bên cạnh đó, trong hàng hải thế giới vẫn phát triển xu hướng đóng và khai thác các loại tàu có tính chất tổng hợp, tức là tàu có đặc điểm thích ứng với chuyên chở một số các mặt hàng. Hai xu hướng này không loại trừ nhau mà bổ sung cho nhau góp phần làm cho đội tàu buôn ngày càng thích hợp với nhu cầu phong phú, đa dạng trong buôn bán quốc tế. Vai trò của vận tải đường biển trong nền kinh tế quốc dân được thể hiện rõ ở những lợi ích chính trị, kinh tế, quân sự do đội tàu buôn mang lại. Kinh nghiệm lịch sử của các nước có ngành hàng hải phát triển đã chứng minh rằng: xây dựng và phát triển đội tàu buôn mang lại những lợi ích to lớn. Vì vậy phát triển đội tàu buôn là chiến lược và chính sách phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Các bước tiến hành dịch vụ vận tải biển. 4.1 Tiếp nhận yêu cầu khách hàng. Khi khách hàng có nhu cầu chuyên chở hàng hoá bằng đường biển hoặc khách hàng muốn thuê tàu để chở hàng, công ty vận tải tuỳ vào điều kiện và khả năng củ mình để chấp nhận việc chở hàng hoặc cho thuê một phần hay toàn bộ con tàu đồng thời công ty vận tải cung cấp lịch trình chuyên chở hàng hoá. 4.2 Thông báo giá. Sau khi chấp nhận yêu cầu của khách hàng hãng tàu sẽ tiến hành thông báo biểu giá cho khách hàng Thông thường biểu giá đã được hàng tàu qui định sẵn, việc khách hàng muốn thay đổi là khó có thể đáp ứng được, khách hàng không được tự do thoả thuận biểu cước mà chỉ thương lượng để hang tàu giảm giá một phần hay hưởng chiết khấu. Mức cước đường biển có thể chia làm hai loại: - Cước tàu rong dao động theo điều kiện cung và cầu của thị trường. Trong thời kỳ thịnh vượng cước tàu rong tăng còn trong thời kỳ suy thoái cước lại giảm. - Cước tàu chợ do công hội hàng hải và những người điều hành hàng hải khác ấn định có lien quan nhiều đến chi phí kinh doanh và tương đối ổn định trong một thời gian. 4.3 Ký kết hợp đồng. Sau khi khách hàng chấp nhận giá cả cũng như những dịch vụ của hãng tàu thì sẽ đi đến ký kết hợp đồng. Hợp đồng này là hợp đồng vận chuyển. Hợp đồng vận chuyển là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên vận chuyển có nghĩa vụ chuyển tài sản đến địa điểm đã định theo thoả thuận và giao tài sản đó cho người có quyền nhận, còn bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ đã cước phí vận chuyển. Hợp đồng vận chuyển này do bên chuyên chở soạn và xác nhận. 4.4 Tiếp nhận và gởi hàng cho tàu. Đúng theo lịch trình người gởi hàng sẽ gửi hàng cho hãng tàu tiếp theo đó hãng tàu sễ nhận hàng và gửi hàng cho tàu. Khi nhận hàng đồng thời hãng tàu sẽ cung cấp đầy đủ chứng từ liên quan đến việc giao nhận cho người gửi hang, tiếp theo đó hang tàu gửi hàng lên tàu và nhận chứng từ từ người chuyên chở. Việc