Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Chúng ta đặt mục tiêu rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế xã hội với các nước trong khu vực và trên thế giới, phấn đấu đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp. Đầu tư vào các dự án kinh tế hiệu quả được coi là chiếc chìa khoá để mở ra thành công. Hệ thống ngân hàng tài chính với chức năng là kênh dẫn vốn quan trọng bậc nhất của nền kinh tế đã tham gia đầu tư ngày càng tích cực vào các dự án. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) cũng không đứng ngoài xu thế đó. Nếu như trước đây, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thường được biết đến là một ngân hàng chuyên doanh hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và thường chỉ quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước lớn, thì nay với chiến dịch chuyển dịch cơ cấu, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã nổi lên như một ngân hàng đa năng, cung cấp các dịch vụ tín dụng có chất lượng cao, tương xứng với tiềm năng của ngân hàng. Cho vay theo dự án được coi là ưu tiên trong chiến lược cho vay của ngân hàng. Nhưng đây là hình thức tín dụng có độ rủi ro cao vì những đặc thù nhất định. Mở rộng, nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn, hạn chế rủi ro là một bài toán khó và tương đối phức tạp đối với hệ thống các ngân hàng thương mại ở Việt Nam nói chung cũng như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng.
Một trong hai hoạt động chính của ngân hàng là hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng có chất lượng tốt hay xấu đều ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của ngân hàng, trong đó tín dụng trung và dài hạn là các khoản ngân hàng cho vay với số vốn lớn, thời hạn dài và thời gian thu hồi vốn chậm, do đó, rủi ro từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn là rất lớn, nhưng làm tốt thì lợi nhuận thu được từ tín dụng trung và dài hạn rất cao.
Qua một thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương, nhận thấy đây là một vấn đề cấp thiết ngân hàng quan tâm và được sự giúp đỡ tận tình, em quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề được chia thành ba phần chính:
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
106 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2045 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn ở Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Chúng ta đặt mục tiêu rút ngắn khoảng cách phát triển kinh tế xã hội với các nước trong khu vực và trên thế giới, phấn đấu đến năm 2020 trở thành nước công nghiệp. Đầu tư vào các dự án kinh tế hiệu quả được coi là chiếc chìa khoá để mở ra thành công. Hệ thống ngân hàng tài chính với chức năng là kênh dẫn vốn quan trọng bậc nhất của nền kinh tế đã tham gia đầu tư ngày càng tích cực vào các dự án. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) cũng không đứng ngoài xu thế đó. Nếu như trước đây, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thường được biết đến là một ngân hàng chuyên doanh hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và thường chỉ quan hệ với các doanh nghiệp nhà nước lớn, thì nay với chiến dịch chuyển dịch cơ cấu, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã nổi lên như một ngân hàng đa năng, cung cấp các dịch vụ tín dụng có chất lượng cao, tương xứng với tiềm năng của ngân hàng. Cho vay theo dự án được coi là ưu tiên trong chiến lược cho vay của ngân hàng. Nhưng đây là hình thức tín dụng có độ rủi ro cao vì những đặc thù nhất định. Mở rộng, nâng cao chất lượng tín dụng trung dài hạn, hạn chế rủi ro là một bài toán khó và tương đối phức tạp đối với hệ thống các ngân hàng thương mại ở Việt Nam nói chung cũng như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng.
Một trong hai hoạt động chính của ngân hàng là hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng có chất lượng tốt hay xấu đều ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh của ngân hàng, trong đó tín dụng trung và dài hạn là các khoản ngân hàng cho vay với số vốn lớn, thời hạn dài và thời gian thu hồi vốn chậm, do đó, rủi ro từ hoạt động tín dụng trung và dài hạn là rất lớn, nhưng làm tốt thì lợi nhuận thu được từ tín dụng trung và dài hạn rất cao.
Qua một thời gian thực tập tại Ngân hàng Ngoại thương, nhận thấy đây là một vấn đề cấp thiết ngân hàng quan tâm và được sự giúp đỡ tận tình, em quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam” cho chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội dung của chuyên đề được chia thành ba phần chính:
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng trung và dài hạn của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam.
CHƯƠNG 1
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngân hàng thương mại
1.1.1.1. Khái niệm của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các loại hình Ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ Ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh…). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị kỹ thuật. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử…Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến ngân hàng để nhận lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua chứng khoán Chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển.
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ ổn định kinh tế.
Tóm lại, Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Nhưng cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động của ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
1.1.1.2. Đặc điểm của Ngân hàng thương mại
Thứ nhất, ngân hàng thương mại trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tàm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người bổ sung vốn; (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.
Do tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy, thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng vốn lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Đây là quan hệ tài chính trực tiếp.
Tuy nhiên, quan hệ tài chính trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian... Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy nở trung gian tài chính. Trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư). Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư. Cơ chế hoạt động trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế, các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.
Ngân hàng là một trung gian thanh toán. Ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ với nhiều hình thức thanh toán như bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ...cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng cũng thực hiện bù trừ lẫn nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua trung tâm thanh toán. Hiện nay, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia.
Một lý do để ngân hàng phát triển thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro – lợi nhuận hấp dẫn nhất.
Thứ hai, ngân hàng là tổ chức kinh doanh phải có điều kiện. Ngân hàng chịu sự điều hành chặt chẽ của Chính phủ hơn bất kỳ tổ chức nào trong nền kinh kế, bởi ngân hàng là thủ quỹ của cả nền kinh tế. Ngân hàng muốn được cấp giấy phép hoạt động phải có một lượng vốn nhất định, cam kết thực hiện một số chính sách nhất định như cho vay, tài trợ cho một dự án hay một khoản chi tiêu nào đó, đồng thời trong quá trình hoạt động, ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Muốn hoạt động tốt, ngân hàng không ngừng gia tăng nguồn vốn của mình, tuyển nhân sự có đủ số lượng và chất lượng, có mạng lưới chi nhánh rộng khắp để đáp ứng nhanh các nhu cầu của khách hàng và thực hiện nhiều hoạt động khác, nhằm thu được lợi nhuận lớn, hạn chế rủi ro cho cả người gửi tiền và ngân hàng.
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Huy động vốn
♦ Huy động vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thường bao gồm: vốn tự có (vốn góp), thặng dư vốn và lợi nhuận tích lũy. Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép), chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn hình thành vốn ban đầu khác nhau: ngân hàng nhà nước do ngân sách nhà nước cấp; Ngân hàng cổ phần do cổ đông đóng góp; Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh đóng góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu của tư nhân. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng phải không ngừng gia tăng vốn chủ sở hữu của mình bằng: nguồn tích lũy từ lợi nhuận (chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư); nguồn thặng dư vốn cổ phần, nguồn bổ sung từ góp thêm, cấp thêm...hoặc từ các quỹ và nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần (các khoản cho vay trung và dài hạn).
♦ Nhận tiền gửi: Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn tiền của ngân hàng thương mại. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau như:
Tiền gửi thanh toán: là tiền gửi của cá nhân hoặc doanh nghiệp gửi và nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ trong phạm vi số dư cho phép với lãi suất rất thấp hoặc có thể bằng không;
Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc các tổ chức xã hội gửi vào ngân hàng với kì hạn nhất định (có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm...) với lãi suất kì hạn tương ứng. Kì hạn càng cao thì lãi suất tiền gửi càng lớn. Người gửi có thể đến ngân hàng rút tiền nếu có cần một khoản tiền chi tiêu, tuy nhiên chỉ được hưởng lãi suất thấp hơn do không rút đúng hạn.
Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: là khoản tiền tiết kiệm của dân cư gửi vào ngân hàng với kì hạn nhất định. Ngân hàng đưa ra nhiều hình thức huy động và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các kì hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ hoặc bằng vàng...).
Tiền gửi của các ngân hàng khác: nhằm mục đích thanh toán hộ và một số mục đích khác ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, nguồn này thường không lớn.
♦ Đi vay từ các tổ chức khác: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm với các phương thức đi vay đa dạng:
Vay ngân hàng Nhà Nước: đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn.
Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn này dùng để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sụng và thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước.
Vay trên thị trường vốn: đây là nguồn vay nợ nhằm bù đắp thiếu hụt tiền cho vay trung và dài hạn. Các ngân hàng vay bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu).
♦ Huy động bằng các nguồn khác: như nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và nguồn khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả...
1.1.2.2. Sử dụng vốn
Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn (huy động vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận.
♦ Hoạt động ngân quỹ: Ngân hàng phải để một lượng tiền mặt trong két nhất định nhằm để chỉ trả nhanh chóng khi có với các nhu cầu của khách hàng. Tiền mặt không phát sinh, do vậy, để vừa đáp ứng thực hiện mục tiêu thanh khoản vừa tạo ra một khoản thu nhập cho ngân hàng, ngân hàng thường có một khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước, tại các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.
♦ Hoạt động đầu tư chứng khoán: ngân hàng thương mại nắm giữ chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản. Các chứng khoán ngân hàng nắm giữ thường là: chứng khoán chính phủ; chứng khoán của các ngân hàng khác, các công ty tài chính và chứng khoán của các công ty khác. Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng (lớn hơn so với tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng) và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Nhưng phải hiểu rằng đầu tư chứng khoán ở đây là đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu... chứ không phải là đầu tư vào cổ phiếu. Đầu tư vào cổ phiếu thuộc hoạt động hùn vốn của ngân hàng.
♦ Hoạt động tín dụng: là hoạt động đặc trưng của ngân hàng thương mại, chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Thường được phân chia thành theo thời gian (tín dụng ngắn, trung và dài hạn), theo hình thức tài trợ chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê, chiết khấu..., chia theo tài sản đảm bảo, theo rủi ro (các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp) hay theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp...) hay theo đối tượng tài trợ (hàng hóa, hoặc bất động sản...) hoặc theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng...).
♦ Các hoạt động khác: Các hoạt động khác là các hoạt động như hoạt động thanh toán, hoạt động ủy thác, hoạt động hùn vốn (ngân hàng tham gia góp vốn với các tổ chức khác dưới hình thức nắm giữ cổ phiếu, góp vốn liên doanh, liên kết...), các hoạt động sử dụng vốn khác như mua sắm, nhà cửa trang thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh của khác hàng và cho thuê.
1.1.2.3. Hoạt động khác
Bên cạnh các hoạt động mang tính truyền thống và đặc trưng, ngân hàng thương mại cũng tiến hành các hoạt động khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận như: cung cấp dịch vụ ủy thác, dịch vụ tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý...
1.2. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm của tín dụng
Tín dụng xuất phát từ chữ Latinh Creditium có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng anh là Credit. Theo Kmarx, tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng sau một khoảng thời gian nhất định thu hồi một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn dựa trên sự tin tưởng.
Theo quan hệ tài chính, tín dụng được hiểu theo nghĩa sau đây:
Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay: Tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người cho vay; hay tín dụng là sự chuyển dịch từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thâm hụt tiết kiệm.
Trong mối quan hệ tài chính cụ thể: Tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.
Như vậy có thể hiểu: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền vay hàng hóa) giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho vay khi đến hạn thanh toán.
Như vậy, khái niệm tín dụng gồm ba mặt cơ bản và một quan hệ được gọi là tín dụng khi có đầy đủ cả ba mặt dưới đây:
Có sự chuyển giao quyền sử dụng một tài sản từ người này sang người khác.
Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời.
Khi hoàn lại tài sản đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm thêm một lượng giá trị dôi thêm – gọi là lãi hay lợi tức.
Tín dụng có các hình thức chủ yếu là tín dụng Nhà nước, tín dụng thương mại, và tín dụng Ngân hàng. Tín dụng thương mại là việc mua bán chịu (hay mua bán trả chậm) hàng hóa, dịch vụ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội.
Trong nền kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại vững chắc trên thương trường mà không vay vốn của ngân hàng. Việc vay vốn từ ngân hàng đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là các dự án mở rộng sản xuất hay đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của tín dụng trung và dài hạn
Khái niệm của tín dụng trung và dài hạn
Ở Việt Nam theo điều 8, số 1627/2001/QĐ-NHNN quy chế cho vay của tổ chức tín dụng: “Tín dụng trung hạn là các khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng, các khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở lên là tín dụng dài hạn”.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được người đi vay sử dụng để mua tài sản cố định, cải tiến đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh và xây dựng các dự án mới có quy mô vừa và nhỏ.
Tín dụng dài hạn chủ yếu để tài trợ vào việc đổi mới dây chuyền sản xuất hiện đại, xây dựng công trình có quy mô, thời gian hoạt động dài như xây dựng nhà ở, các xí nghiệp nhà mày mới, các thiết bị phương tiện vận tải có giá trị lớn.
Nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ ngân hàng.
Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn:
Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài, thu hồi vốn chậm: Đối tượng tài trợ của tín dụng trung và dài hạn là tài sản cố định và các công trình xây dựng. Đặc điểm của đối tượng này là có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Do đó, khoản cho vay để tài trợ cho các đối tượng này đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn. Mặt khác, nguồn để trả nợ là các quỹ khấu hao cơ bản và lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả nợ thường kéo dài đến khi dự án kết thúc.
Rủi ro cao: Do lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nên độ rủi ro của các khoản tín dụng trung và dài hạn là cao.
Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung và dài hạn lớn: do lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, nên các khoản cho vay trung và dài hạn thường có mức lãi suất cao. Thêm vào đó, do khoản cho vay thường có số vốn lớn nên thu nhập mà khoản tín dụng này đem lại cho ngân hàng là lớn.
Vai trò của tín dụng trung và dài hạn
♦ Đối với doanh nghiệp: là một chủ thể trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh từ phía các đối thủ. Để tồn tại, phải triển và thắng thế trong cạnh tranh, điều cần thiết là các doanh nghiệp phải chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, mua sắm trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí đến mức thấp nhất có thể. Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Nguồn tài trợ mà doanh nghiệp có thể lấy từ các nguồn: tự tích lũy lợi nhuận không chia (đây là nguồn quan trọng, tuy nhiên phương thức tài trợ này đòi hỏi một thời gian dài, có thể khiến các doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội kinh doanh); phát hành cổ phiếu, trái phiếu (nguồn này có ưu điểm là tập trung được lượng vốn lớn trong thời gian ngắn song doanh nghiệp phải đối mặt với sự phân quyền kiểm soát trong công ty, và không phải doanh