Hoạt động ngoại thương góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của
nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên cán cân ngoại trưởng
của chúng ta cho đến nay hầu như chưa được cân đối, phải thường xuyên
nhập siêu có nghĩa là trị giá nhập khẩu lớn hơn giá trị xuất khẩu. Điều này
không hẳn là sự tác động xấu đến nền kinh tế. Đối với đất nước ta đang trong
thời kỳ đầu mở cửa nền kinh tế chuyển dần từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế
thị trường cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nghèo nàn, khoa học công nghệ lạc
hậu. Nhập khẩu là một giải pháp để khắc phục bổ sung những khiếm khuyết
đó, tạo nên bước đột phá đưa nền sản xuất của nước nhà dần theo kịp các
nước trong khu vực và thế giới, là bước đệm tạo tiền đề cho xuất khẩu hàng
hoá dịch vụ trong tương lai.
Thực tế kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của các công ty Việt Nam hiện
nay chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong muốn. Có nhiều vướng mức
xuất phát từ bản thân doanh nghiệp và nhà nước cần phải khắc phục kịp thời.
Nhận thấy được vai trò của hoạt động nhập khẩu nên trong thời gian
thực tập ở công ty MESCO tôi đã lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm
hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của Công ty MESCO" với kiến thức và sự
hiểu biết còn hạn hẹp nhưng tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra ý kiến đóng góp
của mình với mong muốn hoạt động nhập khẩu của công ty ngày càng được
hoàn thiện, hoạt động có hiệu quả đạt được mục tiêu của công ty hoàn thành
kế hoạch Bộ đã giao cho.
81 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2991 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của Công ty MESCO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
"Một số giải pháp nhằm
hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của
Công ty MESCO"
Giáo viên hướng dẫn :
Sinh viên thực hiện :
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
1
LỜI NÓI ĐẦU
Hoạt động ngoại thương góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng của
nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua. Tuy nhiên cán cân ngoại trưởng
của chúng ta cho đến nay hầu như chưa được cân đối, phải thường xuyên
nhập siêu có nghĩa là trị giá nhập khẩu lớn hơn giá trị xuất khẩu. Điều này
không hẳn là sự tác động xấu đến nền kinh tế. Đối với đất nước ta đang trong
thời kỳ đầu mở cửa nền kinh tế chuyển dần từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế
thị trường cơ sở vật chất còn thiếu thốn, nghèo nàn, khoa học công nghệ lạc
hậu. Nhập khẩu là một giải pháp để khắc phục bổ sung những khiếm khuyết
đó, tạo nên bước đột phá đưa nền sản xuất của nước nhà dần theo kịp các
nước trong khu vực và thế giới, là bước đệm tạo tiền đề cho xuất khẩu hàng
hoá dịch vụ trong tương lai.
Thực tế kinh doanh nhập khẩu hàng hoá của các công ty Việt Nam hiện
nay chưa thực sự đem lại hiệu quả như mong muốn. Có nhiều vướng mức
xuất phát từ bản thân doanh nghiệp và nhà nước cần phải khắc phục kịp thời.
Nhận thấy được vai trò của hoạt động nhập khẩu nên trong thời gian
thực tập ở công ty MESCO tôi đã lựa chọn đề tài: "Một số giải pháp nhằm
hoàn thiện hoạt động nhập khẩu của Công ty MESCO" với kiến thức và sự
hiểu biết còn hạn hẹp nhưng tôi cũng xin mạnh dạn đưa ra ý kiến đóng góp
của mình với mong muốn hoạt động nhập khẩu của công ty ngày càng được
hoàn thiện, hoạt động có hiệu quả đạt được mục tiêu của công ty hoàn thành
kế hoạch Bộ đã giao cho.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
2
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
I. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU
1. Khái niệm
Thương mại quốc tế là một trong những hình thức chủ yếu của hoạt
động kinh doanh quốc tế. Đó là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá dịch vụ
vượt qua biên giới của một quốc gia. Nó gồm có hai bộ phận cơ bản cấu thành
là nhập khẩu và xuất khẩu. Hai bộ phận này có mối quan hệ mật thiết bổ sung
lẫn nhau nhờ sự phối hợp nhịp nhàng giữa chúng mà thương mại quốc tế mở
ra những cơ hội mới cho tất cả các doanh nghiệp và người tiêu dùng trên toàn
thế giới. Người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn lớn hơn đối với các hàng hoá
dụch vụ ngoài ra nó còn là nhân tố quan trọng tạo ra công ăn việc làm ở nhiều
nước. Trong đó nhập khẩu được hiểu là quá trình hàng hoá, dịch vụ của các tổ
chức nước ngoài được một nước mua nhằm phục vụ quá trình sản xuất, tiêu
dùng hoặc tái xuất khẩu nhằm mục tiêu thu lợi nhuận.
2. Vai trò của hoạt động nhập khẩu
Nghị quyết hội nghị lần thứ IX của Ban cháp hành trung ương Đảng
khóa IX đã xác định: tiếp tục chủ động hội nhập, thực hiện có hiệu quả các
cam kết và lộ trình hội nhập kinh tế, chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để
sớm gia nhập WTO. Để thực hiện tốt chủ trương này, một mặt phải biết phát
huy cao độ tiềm năng và lợi thế trong nước, tranh thủ mọi nguồn ngoại lực để
nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam,
mặt khác cũng hết sức quan trọng đó là hoàn thiện các biện pháp quản lý nhập
khẩu hàng hoá nhằm đáp ứng yêu cầu sớm gia nhập WTO. Điều này cho thấy
vai trò của nhập khẩu hàng hoá rất quan trọng đối với sự phát triển của một
quốc gia điều này được thể hiện cụ thể qua những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất nhờ có hoạt động nhập khẩu mà người tiêu dùng trong nước
có đựa sự lựa chọn lớn hơn đối với hàng hoá dịch vụ, nó bổ sung những thiếu
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
3
hụt về cầu do sản xuất trong nước không có khả năng sản xuất từ đó đáp ứng
được nhu cầu của thị trường nội địa, nâng cao mức sống của người dân, đa
dạng hoá mặt hàng về chủng loại.
Thứ hai, nhập khẩu sẽ phá vỡ tình trạng độc quyền trong nước, phần lớn
các mặt hàng nhập khẩu thường có tính cạnh tranh cao về chất lượng sản
phẩm, kiểu dáng, giá cả… vì vậy các nhà sản xuất trong nước muốn tồn tại
được cần phải tìm mọi biện pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành để tăng khả năng cạnh tranh với hàng ngoại nhập, từ đó tình trạng độc
quyền bị xoá bỏ và người hưởng lợi chính là người tiêu dùng trong nước.
Nhập khẩu cũng là chiếc cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế
thế giới, nhất là đối với Việt Nam trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
Nó là một trong những công cụ hữu hiệu giúp chúng ta xoá bỏ nền kinh tế tự
cung tự cấp để tiến tới nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, nhập khẩu giúp các nước nâng cao được trình độ khoa học công
nghệ, kỹ thuật tiên tiến của các nước công nghiệp trên thế giới. Vì nhập khẩu
thường xảy ra đối với các nước kém phát triển có trình độ khoa học kỹ thuật
thấp kém, không có khả năng sản xuất được các mặt hàng có hàm lượng chất
xám cao, hoặc do trình độ thiết bị máy móc lạc hậu nên sản xuất với chi phí
cao. Trước thực trạng đó họ phải tiến hành nhập khẩu. Thông qua hoạt động
nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại, các sáng kiến kỹ thuật được chuyển giao
giữa các quốc gia nhờ vậy mà các nước kém phát triển có thể bắt kịp trình độ
công nghệ tiên tiến trên thế giới góp phần vào hoạt động sản xuất trong nước
phát triển.
Thứ tư, nhập khẩu thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Thông qua hoạt động
nhập khẩu các máy móc thiết bị hiện đại được nhập về, các nguyên liệu có chi
phí thấp. Các yếu tố này góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng
sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm qua đó tăng ưu thế cạnh tranh không những
trên thị trường nội địa mà còn ảnh hưởng tới thị trường xuất khẩu. Đặc biệt là
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
4
đối với các nước kém phát triển có giá nhân công rẻ như Việt Nam đây là một
lợi thế lớn.
Thứ năm, nhập khẩu nó thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế của một
nước diễn ra nhanh hơn. Vì nhập khẩu sẽ làm cho môi trường cạnh tranh diễn
ra gay gắt, các chủ thể kinh tế phải luôn tự đổi mới hoàn thiện mình mới
mong đứng vững trên thị trường. Trong quá trình cạnh tranh các chủ thể yếu
kém sẽ bị loại khỏi cuộc chơi, chỉ có chủ thể mạnh áp dụng công nghệ kỹ
thuật tiên tiến mới tồn tại được điều này nó kéo theo sự phát triển của xã hội.
Thứ sáu, thông qua hoạt động nhập khẩu các chủ thể kinh tế giữa các
quốc gia có cơ hội giao lưu học hỏi kinh nghiệm của nhau, tạo điều kiện cho
quá trình phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng phát triển
đồng thời tận dụng được lợi thế so sánh của mỗi quốc gia. Vì mỗi quốc gia
đều có lợi thế so sánh nên hoạt động nhập khẩu nó tạo điều kiện thuận lợi cho
cả hai bên trên cơ sở hợp tác hoá cùng có lợi.
Thứ bảy, nhập khẩu nó đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của người
tiêu dùng trong nước, góp phần làm cho quá trình sản xuất và tiêu dùng trong
nước diễn ra thường xuyên và ổn định vì không phải lúc nào thị trường trong
nước cũng cung cấp được các yếu tố đầu vào đáp ứng cho sản xuất trong nước
diễn ra. Ví như Việt Nam phải nhập khẩu phôi thép nên không có nhập khẩu
sản xuất trong nước sẽ trì trệ. Mặt khác nhu cầu tiêu dùng trong nước ngày
càng tăng vì vậy nhập khẩu sẽ khắc phục được hiện tượng mất cân đối giữa
cung và cầu trong nước.
Nói tóm lại hoạt động nhập khẩu đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển nền kinh tế của một quốc gia. Thông qua hoạt động nhập khẩu quan
hệ hợptác kinh tế quốc tế ngày càng được mở rộng, góp phần tăng năng suất
lao động, trình độ phân công lao động ngày càng cao, đời sống người dân
được nâng cao về vật chất lẫn tinh thần. Điều này được thể hiện rõ ở các nước
kém và đang phát triển điển hình như Việt Nam. Chúng ta đã chủ động tiến
hành hoạt động nhập khẩu để phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
5
hoá đất nước; thúc đẩy cơ giới hoá nông nghiệp, tác động đẩy mạnh thuỷ lợi
hoá, sinh học hoá, phục vụ công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản để nâng
cao chất lượng phục vụ cho xuất khẩu. Thúc đẩy sự ra đời của ngành công
nghiệp lắp ráp điện tử, công nghiệp may mặc… tạo ra những sản phẩm có giá
trị cao.
3. Các hình thức nhập khẩu
Nhập khẩu trực tiếp là hình thức nhập khẩu khá phổ biến đối với các
doanh nghiệp nhưng do trình độ phát triển ngày càng cao, do sự tác động của
điều kiện kinh doanh, điều kiện môi trường nên các doanh nghiệp đã sáng tạo
ra nhiều hoạt động nhập khẩu sao cho phù hợp với khả năng của doanh
nghiệp. Mỗi doanh nghiệp tuỳ theo điều kiện của mình là lựa chọn hình thức
phù hợp. Sau đây là một số hình thức nhập khẩu mà doanh nghiệp Việt Nam
thường áp dụng.
3.1. Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động độc lập của công ty, khi tiến hành
nhập khẩu theo phương thức này doanh nghiệp phải tự mình nghiên cứu thị
trường trong và ngoài nước, tính toán chi phí, đảm bảo kinh doanh nhập khẩu
có lợi nhuận. Tuân thủ theo chính sách pháp luật quốc gia và quốc tế. Hình
thức nhập khẩu trực tiếp hai bên (bên nhập khẩu và bên xuất khẩu) trục tiếp
giao dịch với nhau, việc mua bán không ràng buộc lẫn nhau. Trong đó bên
nhập khẩu phải:
- Phải chịu trách nhiệm pháp lý về mọi hoạt động, phải tự nghiên cứu
thị trường, chịu mọi chi phí giao dịch, giao nhận, lưu kho, chi phí quảng cáo,
chi phí tiêu thụ hàng hoá và thuế giá trị gia tăng.
- Doanh nghiệp nhập khẩu trực tiếp được tính hạn ngạch nhập khẩu và
khi tiêu thụ hàng hoá nhập khẩu sẽ được tính vào doanh số và phải chịu thuế
giá trị gia tăng.
- Để tiến tới ký kết hợp đồng hai bên thường phải qua một quá trình
giao dịch, thương lượng với nhau về điều kiện giao dịch.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
6
- Độ rủi ro của hoạt động nhập khẩu này thường cao hơn các hoạt động
nhập khẩu khác nhưng lợi nhuận lại cao hơn.
3.2. Nhập khẩu uỷ thác
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động nhập khẩu phải thông qua trung gian.
Bên trung gian nhận sự uỷ thác của doanh nghiệp tiến hành giao dịch, đàm
phán với đối tác nhập khẩu để làm thủ tục nhập khẩu theo yêu cầu của bên uỷ
thác. Nhập khẩu uỷ thác có những đặc điểm chủ yếu sau:
Bên nhận uỷ thác không phải bỏ vốn, không phải xin hạn ngạch, không
phải nghiên cứu thị trường công việc này thuộc bên uỷ thác. Bên nhận sự uỷ
thác chỉ đứng ra đại diện cho bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bên đối tác
nước ngoài, ký kết hợp đồng và làm thủ tục nhập hàng, thay mặt bên uỷ thác
khiếu kiện, đòi bồi thường với đối tác nước ngoài khi có sự vi phạm hợp đồng
gây thiệt hại.
Quyền lợi mà bên nhận uỷ thác có được từ bên uỷ thác là phí uỷ thác.
Thông thường doanh nghiệp nhận uỷ thác được hưởng một khoản thù lao trị
giá 0,5% đến 1,5% tổng giá trị hợp đồng và phải nộp thuế thu nhập trên
nguồn thu này, khi tiến hành nhập khẩu doanh nghiệp nhận uỷ thác chỉ tính
kim ngạch xuất nhập khẩu chứ không tính vào doanh số và nộp thuế giá trị gia
tăng.
Việc sử dụng trung gian giúp cho doanh nghiệp giảm được mức độ rủi
ro do những người trung gian thường hiểu biết về thị trường, pháp luật và tập
quán địa phương. Do đó họ có khả năng đẩy mạnh việc buôn bán tránh bớt
rủi ro cho người uỷ thác. Mặt khác các nhà trung gian thwongf có cơ sở vật
chất nhất định nên khi sử dụng họ, người uỷ thác đó phải đầu tư trực tiếp ra
nước ngoài. Tuy nhiên khi sử dụng doanh nghiệp uỷ thác họ bị chia rẽ lợi
nhuận, mất sự liên lạc trực tiếp với thị trường
3.3. Nhập khẩu song song
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
7
Đề cập đến nhập khẩu song song là đề cập đến hoạt động thương mại
gắn liền với hàng hoá chứa đựng đối tượng SHCN (Sở hữu công nghiệp) được
bảo hộ, nhập khẩu song song được hiểu là một nhà nhập khẩu không có mối
liên hệ nào với chủ đối tượng SHCN, tiến hành hành vi nhập khẩu một hàng
hoá nhất định chứa đựng đối tượng SHCN nói trên đã được cung cấp bởi
một nhà phân phối được cấp licence hoặc chủ đối tượng SHCN. Như vậy, một
loại hàng hoá chứa đựng đối tượng SHCN sẽ được ít nhất hia nhà khác nhau
cung cấp trên một thị trường và chỉ có một trong các nhà phân phối này được
đồng ý chủ sở hữu đối tượng SHCN về việc thực hiện hành vi thương mại đối
với đối tượng SHCN đó.
Đặc điểm của nhập khẩu song song:
- Chủ SHCN và nhà nhập khẩu không có mối liên hệ nào.
- ít nhất có hai nhà phân phối cung cấp trên một thị trường được chỉ
định bở CSHCN
- Liên quan trực tiếp đến hai mảng quan trọng của thương mại hiện đại
đó là: tự do thương mại và việc bảo hộ quyền SHCN.
Nhập khẩu song song làm xuất hiện xung đột lợi ích giữa các bên liên
quan. Do có hành vi nhập khẩu song song mà bên có quyền với đối tượng
SHCN không khai thác hết được quyền của mình đối với đối tượng SHCN.
Nhưng nhập khẩu song song mang lại lợi ích rất thiết thực đối với thị trường:
Khuyến khích tự do cạnh tranh, vì vậy việc cho phép nhập khẩu song song
hay không sẽ dẫn đến khả năng bắt buộc phải lực chọn giữa việc bảo hộ
nguyên tắc tự do cạnh tranh và việc bảo hộ quyền SHCN. Đây là một mảng
của thương mại hiện đại, đối mặt với vấn đề này mỗi quốc gia đều đưa ra
quan điểm của mình. Nhìn chung vấn đề nhập khẩu song song được giải quyết
linh hoạt ở các nước khác nhau.
3.4. Nhập khẩu đối lưu
Nhập khẩu đối lưu là phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó
nhập khẩu gắn liền với xuất khẩu. Thanh toán không bằng tiền mặt mà dùng
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
8
hàng hoá có giá trị tương đương để trao đổi hay còn gọi nhập khẩu theo
phương thức hàng đổi hàng.
Loại hình nhập khẩu này có những đặc điểm sau:
- Trong mỗi hợp đồng có những điều kiện ràng buộc lẫn nhau khiến cho
người nhập khẩu cũng đồng thời là người xuất khẩu.
- Điều kiện cân bằng phải cân bằng về mặt hàng, về giá cả, cân bằng về
mặt tổng giá trị hàng giao cho nhau và cân bằng về điều kiện giao hàng.
- Người nhập khẩu cùng một lúc thu lãi từ hai hoạt động: nhập khẩu và
xuất khẩu điều này làm lợi cho cả hai bên.
- Trong quá trình trao đổi hàng hoá dịch vụ hai bên phải quy định thống
nhất lấy một đồng tiền làm vật ngang giá chung cho quá trình trao đổi.
3.5. Nhập khẩu tái xuất
Nhập khẩu tái xuất là hoạt động mua hàng hoá từ nước ngoài về nhưng
mục đích không phải để tiêu dùng trong nước mà xuất khẩu sang nước thứ ba
nhằm thu một khoản ngoại tệ lớn hơn. Mặt hàng này chưa qua chế biến ở
nước mình mà được xuất khẩu trực tiếp sang nước thứ ba. Như vậy, hoạt động
nhập khẩu tái xuất luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và
nước nhập khẩu.
Đặc điểm của hoạt động tái xuất:
- Người kinh doanh tái xuất phải ký hai hợp đồng một hợp đồng nhập
khẩu và một hợp đồng xuất khẩu không chịu thuế XNK
- Hàng hoá có thể chở thẳng từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu
nhưng nước tái xuất nhận tioền từ nước nhập khẩu và thanh toán tiền cho
nước xuất khẩu.
- Về mặt thanh toán, nhiều hợp đồng tái xuất quy định dùng phương
thức thư tín dụng giáp lưng. Kinh doanh theo hình thức này đòi hỏi sự nhạy
bén tình hình thị trường và giá cả, sự chính xác và chặt chẽ trong hợp đồng
mua bán.
3.6. Nhập khẩu gia công
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
9
Nhập khẩu gia công là hình thức nhập khẩu trong đó bên nhập khẩu
nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của bên đặt gia công để chế biến ra
thành phẩm, giao lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao
Đặc điểm của hình thức này:
- Hoạt động nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất
- Cả hai bên cùng có lợi: bên đặt gia công giúp họ tận dụng được
nguyên liệu và gia công rẻ của nước nhận gia công. Đối với bên nhận gia
công giúp tạo công ăn việc làm trong nước, tiếp nhận được thiết bị công nghệ
mới.
- Bên nhận gia công chịu mọi chi phí và rủi ro của quá tình sản xuất gia
công.
- Hoạt động này về phương thức thanh toán người ta có thể áp dụng
nhiều phương thức thanh toán như: nhờ thu, thành toán bằng thư tín dụng
Trên đây ta xét một số hình thức nhập khẩu cơ bản. Trong đó nhập khẩu
trực tiếp là hoạt động phổ biến nhất và tồn tại lâu đời nhất. Trải qua nhiều
biến đổi của xã hội hoạt động nhập khẩu có nhiều hình thức được sáng tạo ra
nhằm đáp ứng nhu cầu thay đổi đó. Việc áp dụng hình thức nào là tuỳ thuộc
và điều kiện và trình độ cũng như năng lực của mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc
gia. Đứng trước thực trạng đó mỗi quốc gia mỗi tổ chức quốc tế đều đưa ra
quan điểm của mình. Bởi đây là một vấn đề nhạy cảm liên quan đến thương
mại của mỗi quốc gia, cho nên không phải quốc gia nào cũng có được quan
điểm rõ ràng nhất quán. Nhìn chung vấn đề nhập khẩu được giải quyết hết
sức linh hoạt ở các nước khác nhau.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
Hoạt động thương mại nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng đều
chịu ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác nhau như: kinh tế, chính trị, luật pháp
văn hoá, xã hội… Các yếu tố này sẽ gây ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến
hiệu quả kinh doanh. Nhìn chung ta có thể chia nhóm ảnh hưởng đến hoạt
động nhập khẩu là nhóm chủ quan và nhóm khách quan.
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
10
4.1. Các yếu tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan tự bản thân doanh nghiệp có thể điều chỉnh khắc
phục được, nó thuộc bản thân doanh nghiệp. Các nhân tó này có tác động tích
cực hay tiêu cực đến hoạt động kinh doanh, hoạt động nhập khẩu điều này
phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: vốn, nguồn nhân lực, về xây dựng thể chiế
chính sách phát triển thị trường, về kết cấu hạn tầng thương mại, về hình
thành kênh phân phối lưu thông, hoạt động sản xuất kinh doanh và về tổ chức
doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần phải tự đánh giá đùng khả năng của mình để đề ra
những mục tiêu phù hợp cần đạt tới và cách thức để mục tiêu đó. Một kế
hoạch chiến lược được thiết lập và phát triển cho toàn bộ các hoạt động của
doanh nghiệp nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng.
Cơ cấu tổ chức bộ máy là cơ sở đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh
doanh có hiệu quả. Sự phối hợp giữa các bộ phận sẽ diễn ra nhịp nhàng thông
suốt nếu bộ máy tổ chức có cơ cấu hợp lý. Trong đó yếu tố con người đóng
vai trò quan trọng đối với sự thành bại của một doanh nghiệp. Một đội ngũ
cán bộ có trình độ có kỷ luật nghiệp vụ thành thạo, có nhiều kinh nghiệm
trong hoạt động xuất nhập khẩu giúp cho doanh nghiệp tránh được nhiều thiếu
sót trong quá trình tiến hành thủ tục nhập khẩu, dự kiến trước được tình hình
biến đổi trên thị trường xuất nhập khẩu để đề ra biên pháp, chính sách xuất
nhập khẩu phù hợp.
Một hệ thống kênh phân phối tốt sẽ giúp cho doanh nghiệp tiết kiệm
được chi phí, hàng hoá tiệu thụ nhanh và kịp thời đến khách hàng. Điều này
ảnh hưởng tới tình hình nhập khẩu của doanh nghiệp. Vì khi hàng hoá tiêu thụ
mạnh có nghĩa là sản xuất sẽ được mở rộng doanh nghiệp vì vậy mà nhu cầu
nhập khẩu phục vụ cho sản xuất tiêu dùng tốt hơn.
Đối với bất kỳ doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh đều cần đến vốn.
Nguồn vốn mà doanh nghiệp có được bằng nhiều cách: vốn tự có, vốn góp và
vốn vay hoặc lợi nhuận tái đầu tư. Quy mô sản xuất kinh doanh ít nhiều phụ
Chuyªn ®Ò tèt nghiÖp
11
thuộc vào nguồn vốn mà doanh nghiệp có được nó là cơ sở để đảm bảo khả
năng thanh toán đối với lượng hàng hoá nhập khẩu.
Kết cấu hạ tầng thương mại đảm bảo cho hàng hoá giữ được phẩm
chất. Nếu doanh nghiệp có kết cấu hạ tầng thương mại tố sẽ giúp cho doanh
nghiệp tránh được những thiệt hại, rủi ro sẽ diễn ra đối với hàng hoá như: đổ
vỡ, sự tác động của môi trường tự nhiên…
4.2. Các yếu tố khách quan
Các yếu tố khách quan ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Nó không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của doanh nghiệp điều
này buộc doanh nghiệp phải tìm cách thích nghi hoặc tuân thủ các nguyên tắc
và quy luật. Các yếu tố khách quan cơ bản gồm có những yếu tố sau:
* Yếu tố thuộc về môi trường chính trị như: Tác động của hệ thống luật
pháp, hệ thống các công cụ chính sách của nhà nước, cơ chế điều hành của
chính phủ.
Một doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh quốc tế phải chịu
sự điều chỉnh của hệ thống luật pháp quốc gia và luật pháp quốc tế nhằm điều
chỉnh hành vi kinh doanh của doanh nghiệp. Tất cả các văn bản luật chỉ rõ
doanh nghiệp được kinh doanh hàng hoá gì? Cấm kinh doanh hàng hoá gì?
Chất