Trong những năm gần đây với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đã thu được những thành công đáng kể.
Đứng dưới góc độ của ngành Du lịch, việc "mở cửa" đã tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển của ngành, du lịch trở thành một nhu cầu tất yếu không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Ngành du lịch trở thành một ngành kinh doanh dịch vụ phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Ở nhiều quốc gia phát triển, ngành du lịch chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế quốc dân. Mỗi năm trên thế giới có hàng trăm triệu người đi du lịch và số người đi du lịch ngày càng gia tăng.
Ở Việt Nam, du lịch là ngành kinh tế còn non trẻ nhưng tầm quan trọng của nó đã được đánh giá đúng mức, Đảng và Nhà nước ta đã coi: “Phát triển du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn của đất nước”. Vì vậy mà trong những năm gần đây Nhà nước ta đã đầu tư nhiều công trình cơ sở hạ tầng, tôn tạo các điểm du lịch để phục vụ cho ngành du lịch và đưa ra những chính sách phù hợp, thông thoáng hơn, ưu tiên cho ngành du lịch phát triển.
Với những chính sách đổi mới và phát triển ngày càng nhiều công ty lữ hành được thành lập, hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh lữ hành. Điều này buộc các doanh nghiệp phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh gay gắt và khốc liệt. Để duy trì và tăng trưởng thực tế đòi hỏi các nhà kinh doanh lữ hành phải nghiên cứu kỹ lưỡng đối tượng khách và phạm vi hoạt động của mình, từ đó đề ra các biện pháp thích hợp nhằm thu hút và thoả mãn tối đa nhu cầu của các đối tượng khách này.
Chi nhánh công ty Cổ phần Du lịch - Dịch vụ Dầu khí Hải Phòng thuộc công ty Cổ phần Du lịch - Dịch vụ Dầu khí Hải Phòng là một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành từ khá sớm so với các công ty khác cùng hoạt động trong lĩnh vực này của thành phố Hải Phòng. Chi nhánh công ty đã hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao và hoạt động kinh doanh cũng thu được kết quả đáng khích lệ, góp phần không nhỏ làm thay đổi bộ mặt du lịch của thành phố.
Để khảo sát và đánh giá hoạt động kinh doanh lữ hành với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, em đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh lữ hành tại Chi nhánh công ty Cổ phần Du lịch - Dịch vụ Dầu khí Hải Phòng” và chọn làm đề tài tốt nghiệp của mình
79 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3907 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh lữ hành tại Chi nhánh công ty Cổ phần Du lịch - Dịch vụ Dầu khí Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Trong những năm gần đây với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế Việt Nam đã thu được những thành công đáng kể.
Đứng dưới góc độ của ngành Du lịch, việc "mở cửa" đã tạo ra cơ hội lớn cho sự phát triển của ngành, du lịch trở thành một nhu cầu tất yếu không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Ngành du lịch trở thành một ngành kinh doanh dịch vụ phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Ở nhiều quốc gia phát triển, ngành du lịch chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế quốc dân. Mỗi năm trên thế giới có hàng trăm triệu người đi du lịch và số người đi du lịch ngày càng gia tăng.
Ở Việt Nam, du lịch là ngành kinh tế còn non trẻ nhưng tầm quan trọng của nó đã được đánh giá đúng mức, Đảng và Nhà nước ta đã coi: “Phát triển du lịch trở thành nền kinh tế mũi nhọn của đất nước”. Vì vậy mà trong những năm gần đây Nhà nước ta đã đầu tư nhiều công trình cơ sở hạ tầng, tôn tạo các điểm du lịch để phục vụ cho ngành du lịch và đưa ra những chính sách phù hợp, thông thoáng hơn, ưu tiên cho ngành du lịch phát triển.
Với những chính sách đổi mới và phát triển ngày càng nhiều công ty lữ hành được thành lập, hoạt động trên lĩnh vực kinh doanh lữ hành. Điều này buộc các doanh nghiệp phải đối mặt với tình trạng cạnh tranh gay gắt và khốc liệt. Để duy trì và tăng trưởng thực tế đòi hỏi các nhà kinh doanh lữ hành phải nghiên cứu kỹ lưỡng đối tượng khách và phạm vi hoạt động của mình, từ đó đề ra các biện pháp thích hợp nhằm thu hút và thoả mãn tối đa nhu cầu của các đối tượng khách này.
Chi nhánh công ty Cổ phần Du lịch - Dịch vụ Dầu khí Hải Phòng thuộc công ty Cổ phần Du lịch - Dịch vụ Dầu khí Hải Phòng là một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành từ khá sớm so với các công ty khác cùng hoạt động trong lĩnh vực này của thành phố Hải Phòng. Chi nhánh công ty đã hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao và hoạt động kinh doanh cũng thu được kết quả đáng khích lệ, góp phần không nhỏ làm thay đổi bộ mặt du lịch của thành phố.
Để khảo sát và đánh giá hoạt động kinh doanh lữ hành với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh, em đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh lữ hành tại Chi nhánh công ty Cổ phần Du lịch - Dịch vụ Dầu khí Hải Phòng” và chọn làm đề tài tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu:
Mục đích:
Trên cơ sở thực tế của Chi nhánh công ty Cổ phần Du lịch - Dịch vụ Hải Phòng để đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh lữ hành tại Trung tâm.
Phạm vi:
Hoạt động kinh doanh lữ hành của Trung tâm trong thời gian 3 năm gần đây và hướng phát triển trong 3 năm tới.
3. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin.
- Phương pháp tiếp cận và phân tích, hệ thống.
Ngoài ra còn sử dụng phương pháp liên hệ, đối chiếu, so sánh, điều tra và đánh giá.
4. Bố cục của luận văn:
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1 : Cơ sở lý thuyết về lữ hành, kinh doanh lữ hành và hiệu quả hoạt
động kinh doanh lữ hành.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động kinh doanh lữ hành tại Chi nhánh công ty Cổ phần Du lịch - Dịch vụ Dầu khí Hải Phòng.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh lữ
hành tại Chi nhánh công ty Cổ phần Du lịch - Dịch vụ Dầu Khí Hải Phòng.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ LỮ HÀNH, KINH DOANH LỮ HÀNH VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
LỮ HÀNH
1.1. Một số khái niệm cơ bản về lữ hành và kinh doanh lữ hành.
1.1.1 Khái niệm lữ hành.
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về hoạt động lữ hành và để phân biệt lữ hành với du lịch ta có thể hiểu theo hai cách dưới đây:
- Theo nghĩa rộng: Lữ hành bao gồm tất cả các hoạt động di chuyển của con người cũng như các hoạt động liên quan đến sự di chuyển đó.
Theo cách hiểu này thì hoạt động du lịch có bao gồm yếu tố lữ hành nhưng không phải tất cả các hoạt động lữ hành đều là du lịch.
- Theo nghĩa hẹp: Lữ hành bao gồm toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc xây dựng, tổ chức thực hiện các chương trình du lịch, tức là hoạt động du lịch bao gồm cả những hoạt động lữ hành.
1.1.2 Kinh doanh lữ hành.
- Theo nghĩa rộng: "Kinh doanh lữ hành là việc đầu tư để thực hiện một, một số hoặc tất cả các công việc trong quá trình chuyển giao sản phẩm thực hiện giá trị sử dụng hoặc làm gia tăng giá trị của nó để chuyển giao sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch với mục đích lợi nhuận". Kinh doanh lữ hành được thực hiện bởi các doanh nghiệp.
- Theo nghĩa hẹp, Luật du lịch Việt Nam định nghĩa: "Lữ hành là việc xây dựng, bán, tổ chức thực hiện các chương trình du lịch nhằm mục đích sinh lợi".
Như vậy theo khái niệm này, kinh doanh lữ hành tại Việt Nam được hiểu theo nghĩa hẹp và được xác định một cách rõ ràng về sản phẩm là chương trình du lịch.
- Theo định nghĩa của Tổng cục du lịch Việt Nam thì “Kinh doanh lữ hành là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập chương trình du lịch trọn gói hay từng phần, quảng cáo và bán chương trình này trực tiếp hay gián tiếp thông qua trung gian hoặc văn phòng đại diện, tổ chức thực hiện chương trình và hướng dẫn du lịch”. Các doanh nghiệp lữ hành đương nhiên được phép tổ chức các mạng lưới lữ hành.
Theo Tổng cục du lịch Việt Nam phân loại thì kinh doanh lữ hành bao gồm hai loại là: kinh doanh lữ hành quốc tế và kinh doanh lữ hành nội địa.
- Kinh doanh lữ hành quốc tế: Là việc tổ chức đưa khách ra nước ngoài hoặc đưa khách nước ngoài vào nước sở tại.
- Kinh doanh lữ hành nội địa: Là việc tổ chức cho khách là công dân một nước, những người cư trú tại một nước đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ nước đó.
Theo Luật du lịch Việt Nam điều 34 quy định:
- "Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam”.
- “Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào Việt Nam du lịch, công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại Việt Nam ra nước ngoài du lịch”.
* Đặc điểm của kinh doanh lữ hành:
Khác với các ngành kinh doanh hàng hoá, ngành kinh doanh lữ hành mang những đặc điểm sau:
- Phụ thuộc vào tài nguyên du lịch ở các điểm du lịch, có thể xem giá trị tài nguyên du lịch ở các điểm du lịch quyết định độ phong phú của chương trình du lịch.
- Kinh doanh lữ hành phải có vốn tương đối lớn, do các chương trình du lịch khi thực hiện cần phải đặt trước một khoản cho nhà cung cấp dịch vụ.
- Yêu cầu khắt khe về chất lượng, không có trường hợp làm thử. Do đó cần có sự đầu tư và chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi thực hiện.
- Do tính thời vụ trong kinh doanh lữ hành là rất lớn nên khi hoạt động cần tính đến phương án ngoài thời vụ.
- Kinh doanh lữ hành cần một lượng lao động trực tiếp. Sản phẩm lữ hành mang tính chất phục vụ nhiều nên đòi hỏi sự khéo léo, lịch sự mà không một loại máy móc nào thay thế được. Thời gian lao động phụ thuộc vào thời gian mà khách tham gia chương trình. Đồng thời do chịu áp lực tâm lý lớn từ phía khách hàng nên cường độ lao động không đồng đều và rất căng thẳng. Như vậy công tác nhân lực trong kinh doanh lữ hành đòi hỏi rất cao và phải tuyển chọn kỹ lưỡng. Điều này giúp kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn.
1.1.3 Phân loại kinh doanh lữ hành.
Khái niệm doanh nghiệp lữ hành: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. Bất cứ doanh nghiệp nào được pháp luật cho phép và có thực hiện kinh doanh lữ hành đều được gọi là doanh nghiệp lữ hành.
Tùy vào quy mô, phạm vi hoạt động và tính chất của tài sản, hình thức tổ chức, tư cách pháp nhân mà doanh nghiệp kinh doanh lữ hành có các tên gọi khác nhau: công ty lữ hành, đại lý lữ hành, công ty lữ hành quốc tế, công ty lữ hành nội địa. Riêng ở Việt Nam, phần lớn các doanh nghiệp có kinh doanh lữ hành có cách gọi phổ biến là các trung tâm lữ hành quốc tế, nội địa nằm trong các công ty du lịch. Nhìn chung, các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành khác nhau chủ yếu trên các phương diện:
+ Quy mô và địa bàn hoạt động.
+ Đối tượng khách.
+ Mức độ tiếp xúc với khách du lịch.
+ Mức độ tiếp xúc với các nhà cung cấp sản phẩm du lịch.
1.1.3.1 Căn cứ vào tính chất của hoạt động để tạo ra sản phẩm.
Có các loại: kinh doanh đại lý lữ hành, kinh doanh du lịch lữ hành, kinh doanh tổng hợp.
- Kinh doanh đại lý lữ hành: Hoạt động chủ yếu là làm dịch vụ trung gian tiêu thụ và bán sản phẩm một cách độc lập, riêng lẻ cho các nhà sản xuất du lịch để hưởng hoa hồng theo mức phần trăm giá bán, không làm gia tăng giá trị của sản phẩm trong quá trình chuyển giao từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực tiêu dùng du lịch. Loại hình kinh doanh du lịch này thực hiện nhiệm vụ như là: "Chuyên gia cho thuê" không phải chịu rủi ro. Các yếu tố quan trọng bậc nhất đối với hoạt động kinh doanh này là vị trí, hệ thống đăng ký và kỹ năng chuyên môn, kỹ năng giao tiếp và kỹ năng bán hàng của đội ngũ nhân viên. Các doanh nghiệp thuần túy thực hiện loại hình du lịch này được gọi là các đại lý lữ hành bán lẻ.
- Kinh doanh du lịch lữ hành: Là hoạt động bán buôn, hoạt động "sản xuất" làm gia tăng giá trị của các sản phẩm đơn lẻ của các nhà cung cấp để bán cho khách. Với hoạt động kinh doanh này chủ thể của nó phải gánh chịu rủi ro, san sẻ rủi ro trong quan hệ với các nhà cung cấp. Cơ sở hoạt động là liên kết các sản phẩm mang tính đơn lẻ của các nhà cung cấp độc lập thành sản phẩm mang tính nguyên chiếc bán với giá gộp cho khách, đồng thời làm gia tăng giá trị của sản phẩm cho người tiêu dùng thông qua sự liên kết tạo ra tính trội trong hệ thống (1+1>2) và thông qua sức lao động của các chuyên gia marketing, điều hành hướng dẫn.
- Kinh doanh lữ hành tổng hợp: Bao gồm tất cả các kinh doanh du lịch đóng vai trò vừa sản xuất trực tiếp từng loại dịch vụ (người cung cấp) vừa liên kết các dịch vụ thành sản phẩm mang tính nguyên chiếc, vừa thực hiện bán buôn, bán lẻ vừa thực hiện chương trình du lịch đã bán. Đây là kết quả trong quá trình phát triển và thực hiện liên kết dọc, liên kết ngang của các chủ thể kinh doanh lữ hành trong ngành du lịch. Các doanh nghiệp thực hiện kinh doanh lữ hành tổng hợp được gọi là các công ty du lịch.
1.1.3.2 Căn cứ vào phương thức và phạm vi hoạt động.
Có các loại: kinh doanh lữ hành gửi khách, kinh doanh lữ hành nhận khách, kinh doanh lữ hành kết hợp.
- Kinh doanh lữ hành gửi khách: Bao gồm cả gửi khách quốc tế, gửi khách nội địa, là loại hình kinh doanh mà hoạt động chính của nó tổ chức thu hút du lịch một cách trực tiếp để đưa khách đến nơi du lịch nổi tiếng. Các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh lữ hành gửi khách gọi là công ty lữ hành gửi khách. - Kinh doanh lữ hành nhận khách: Bao gồm cả nhận khách quốc tế và nội địa, là loại hình kinh doanh mà hoạt động chính của nó là xây dựng các chương trình du lịch và tổ chức các chương trình du lịch đã bán cho khách thông qua các công ty lữ hành gửi khách. Loại hình kinh doanh này thích hợp với những nơi có tài nguyên du lịch nổi tiếng. Các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh lữ hành nhận khách gọi là công ty lữ hành nhận khách.
- Kinh doanh lữ hành kết hợp: Có nghĩa là sự kết hợp giữa kinh doanh lữ hành gửi khách và kinh doanh lữ hành nhận khách. Loại kinh doanh này thích hợp với quy mô lớn, có đủ nguồn lực để thực hiện các hoạt động gửi khách và nhận khách. Các doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh lữ hành kết hợp được gọi là các công ty du lịch tổng hợp hoặc các tập đoàn du lịch.
1.1.4 Vai trò của doanh nghiệp lữ hành.
1.1.4.1 Đối với khách du lịch.
Bằng các sản phẩm, dịch vụ của mình các công ty lữ hành sẽ đem lại một số lợi ích như sau cho khách du lịch:
- Khách du lịch sẽ được đảm bảo chất lượng sản phẩm, được thừa hưởng những tri thức và kinh nghiệm của chuyên gia tổ chức du lịch tại các công ty lữ hành, tạo điều kiện cho khách thưởng thức một cách khoa học nhất.
- Hơn thế nữa các công ty lữ hành giúp đảm bảo thuận tiện mặt tài chính, sự an toàn cho du khách trong quá trình đi, đơn giản hóa quá trình chọn và mua sản phẩm. Công ty lữ hành giúp cho khách du lịch cảm nhận được phần nào sản phẩm trước khi họ quyết định mua và thực sự tiêu dùng nó. Các ấn phẩm quảng cáo, lời giới thiệu của nhân viên bán hàng sẽ là ấn tượng ban đầu về sản phẩm du lịch. Khách du lịch vừa có quyền lựa chọn vừa cảm thấy yên tâm và hài lòng với lựa chọn của mình.
- Khi mua các chương trình du lịch tại các công ty lữ hành khách du lịch sẽ được hưởng giá rẻ, mặt khác họ đã tiết kiệm được cả thời gian và chi phí cho việc tìm kiếm thông tin, tổ chức sắp xếp bố trí cho chuyến du lịch của họ.
1.1.4.2 Đối với các nhà cung ứng sản phẩm du lịch.
- Các công ty lữ hành sẽ là nguồn cung cấp lượng khách lớn, ổn định và có kế hoạch. Mặt khác trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa các bên, các nhà cung cấp đã chuyển một phần rủi ro có thể xảy ra sang các công ty lữ hành.
- Việc tiêu dùng sản phẩm của các nhà cung cấp của các công ty lữ hành sẽ giúp quảng cáo, khuyếch trương cho tên tuổi danh tiếng của nhà cung cấp đó. Đặc biệt đối với các nước phát triển, khi khả năng tài chính còn hạn hẹp thì mối quan hệ với các công ty lữ hành lớn trên thế giới là phương hướng quảng cáo hữu hiệu đối với thị trường du lịch quốc tế.
1.1.5 Chức năng nhiệm vụ của công ty lữ hành.
- Thực hiện hoạt động trung gian bán sản phẩm nhà cung cấp, rút ngắn khoảng cánh cung cầu.
- Tổ chức các chương trình du lịch trọn gói: tập hợp các sản phẩm riêng lẻ của các nhà cung cấp thành một sản phẩm tổng hợp để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch.
- Các công ty lữ hành lớn với hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phong phú, đảm bảo phục vụ tất cả các nhu cầu của khách từ khâu đầu tiên đến khâu cuối cùng. Những tập đoàn đa quốc gia sẽ góp phần quyết định xu hướng tiêu dùng du lịch trên thị trường hiện tại và trong tương lai.
1.2 Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh lữ hành.
1.2.1 Khái niệm hiệu quả kinh doanh.
Kinh doanh là những hoạt động sinh lời và kiếm lợi của con người. Muốn kiếm lời và sinh lợi, con người phải luôn xem xét, cân nhắc tính toán sao cho có thể lựa chọn được những phương án kinh doanh tối ưu nhất. Người kinh doanh phải thường xuyên đánh giá kết quả công việc của mình, rút ra những kinh nghiệm, từ đó xử lý để có những biện pháp kịp thời không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Khái niệm: Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả kinh doanh. Ở đây chỉ đưa ra một quan điểm cơ bản: "Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực sẵn có của doanh nghiệp (nhân lực và vật lực) để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với chi phí thấp nhất".
Đây là một vấn đề phức tạp có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh (lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động) nên doanh nghiệp chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố cơ bản của quá trình kinh doanh có hiệu quả.
Về cơ bản, hiệu quả kinh doanh được phản ánh trên hai mặt: hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
- Hiệu quả kinh tế: Phản ánh trình độ sử dụng lao động xã hội để đạt hiệu quả kinh tế cao với chi phí lao động xã hội thấp nhất.
- Hiệu quả xã hội: Phản ánh mức độ ảnh hưởng của các kết quả đạt được đến xã hội và môi trường.
Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội là hai mặt vừa thống nhất vừa đối lập, chúng có mối quan hệ mật thiết, hữu cơ với nhau. Do đó, khi tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp cần phải chú trọng đến hai mặt này.
Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh phản ánh tổng quát hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp là:
Hiệu quả kinh doanh
=
Kết quả đầu ra
Các yếu tố đầu vào
Ý nghĩa: Cho ta biết một đồng yếu tố đầu vào trong kỳ phân tích sẽ thu được bao nhiêu đồng yếu tố đầu ra.
Yếu tố đầu ra đo bằng các chỉ tiêu như tổng doanh thu, lợi nhuận thuần, lợi tức thuần, lợi tức gộp. Còn yếu tố đầu vào bao gồm tư liệu lao động, lao động, đối tượng lao động, vốn chủ sở hữu, vốn vay...
Hiệu quả kinh doanh lữ hành: Thể hiện khả năng, mức độ sử dụng các yếu tố đầu vào và tài nguyên du lịch nhằm tạo ra và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm dịch vụ cao trong một khoảng thời gian nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch đạt doanh thu cao nhất, thu được lợi nhuận tối đa, với chi phí là nhỏ nhất và có ảnh hưởng tích cực đến xã hội và môi trường. Trong đó bao gồm các yếu tố đầu vào là cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn sản xuất kinh doanh, tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân tạo và cuối cùng là chi phí cho đối tượng lao động, tư liệu lao động và lao động thuần túy.
1.2.2 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh lữ hành.
Từ giác độ quá trình kinh doanh, hiệu quả kinh doanh được hiểu là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với tổng chi phí thấp nhất. Để đánh giá trình độ quản lý của doanh nghiệp cần phải dựa vào hệ thống các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh. Đối với doanh nghiệp hệ thống chỉ tiêu này bao gồm chỉ tiêu hiệu quả tổng quát, chỉ tiêu lợi nhuận, doanh thu, chi phí, tỷ xuất lợi nhuận, chỉ tiêu sử dụng lao động.
Khi kinh doanh lữ hành, doanh nghiệp lữ hành không chỉ đơn giản đóng vai trò là nhà phân phối sản phẩm trong du lịch mà còn là nhà sản xuất trong du lịch. Việc xây dựng các chỉ tiêu định lượng rất cần thiết, để giúp các nhà quản lý có một cơ sở chính xác và khoa học đánh giá một cách toàn diện hoạt động kinh doanh lữ hành và từ đó nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả trong kinh doanh loại sản phẩm này. Việc phân tích, đánh giá hiệu quả kinh doanh nhằm mục đích nhận thức, đánh giá đúng đắn hiệu quả kinh tế trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp. Qua đó thấy được trình độ quản lý kinh doanh cũng như đánh giá được chất lượng các phương án kinh doanh mà doanh nghiệp đã đề ra. Đồng thời khẳng định vị thế, so sánh đẳng cấp với các đối thủ cạnh tranh trên thương trường.
Có các khái niệm:
- Doanh số bán: Tiền thu được về bán hàng hóa và dịch vụ.
- Vốn sản xuất: Vốn hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: Đất đai, nhà xưởng, bí quyết kỹ thuật, sáng kiến phát hiện nhu cầu, thiết bị, vật tư, hàng hóa v.v...bao gồm giá trị của tài sản hữu hình và tài sản vô hình, tài sản cố định, tài sản lưu động, tiền mặt dùng cho sản xuất.
Theo tính chất luân chuyển, vốn sản xuất chia ra vốn cố định và vốn lưu động.
- Tổng chi phí gồm chi phí cố định và chi phí biến đổi.
- Lãi gộp: là phần còn lại của doanh số bán sau khi trừ đi chi phí biến đổi.
- Lợi nhuận trước thuế: Bằng lãi gộp trừ đi chi phí cố định.
- Lợi nhuận sau thuế: hay còn gọi là lợi nhuận thuần túy (lãi ròng) bằng lợi nhuận trước thuế trừ đi các khoản thuế.
1.2.2.1 Chỉ tiêu kết quả kinh doanh tổng hợp.
Chỉ tiêu này phản ánh tổng quát kết quả kinh doanh của toàn bộ quá trình sử dụng các nguồn lực trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này rất cần thiết trong quá trình đánh giá hiệu quả kinh doanh vì có tình trạng hiệu quả của mặt này tăng nhưng hiệu quả mặt khác của quá trình kinh doanh lại giảm xuống. Do đó cần có chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp để giúp cho doanh nghiệp đánh giá đúng đắn và chính xác hơn.
+ Chỉ tiêu phản ánh số lượng: Tổng doanh thu (DT), tổng lợi nhuận (LN).
+ Chỉ tiêu phản ánh chất lượng: - Tỷ suất doanh thu trên chi phí =
- Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí =
1.2.2.2 Chỉ tiêu tổng doanh thu từ kinh doanh lữ hành.
Đây là chỉ tiêu chung nhất phản ánh hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Chỉ tiêu này không chỉ phản ánh kết quả kinh doanh lữ hành của doanh nghiệp mà còn để xem xét từng loại chương trình du lịch của doanh nghiệp đang ở giai đoạn nào trong chu kỳ sống của sản phẩm.
Mặt khác nó còn làm cơ sở tính toán chỉ tiêu lợi nhuận thuần và các chỉ tiêu tương đối để đánh giá vị thế, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh thu còn là nguồn quan trọng để bảo đảm trang trải các khoản chi phí cho hoạt động kinh doanh và chi phí khác. Doanh thu càn