Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV đến nay, nước ta đã có nhiều
đổi mới quan trọng, đặc biệt là việc chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế mở cửa đã tạo điều kiện cho thương
mại quốc tế phát triển nhằm đảm bảo sự lưu thông hàng hoá thông thương với nước
ngoài, khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta và của thế giới trên cơ sở phân
công lao động quốc tée.
Đối với Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất
nước. Nó như là một phương tiên phục vụ nhu cầu nhập khẩu, cải tiến công nghệ, kỹ
thuật hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm. Hơn thế, hoạt động xuất khẩu còn là
một yếu tố không thể thiếu trong việc triển khai thực hiện chương trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước.
Trong cơ cấu hàng công nghiệp xuất khẩu thì hàng dệt may chiếm tỉ trọng đáng
kể, xuất khẩu chủ lực. Hơn nữa sự thành công về xuất khẩu trong ngành dệt may
thường mở đường cho sự xuất hiện của một chiến lược phát triển định hướng xuất
khẩu có cơ sở rộng hơn vì đây là một ngành công nghiệp quan trọng: sự tăng trưởng
của ngành này cho thấy kết quả hoạt động kinh tế một cách tổng thể hơn.
Xuất phát từ vấn đề thực tiễn, trong quá trình thực tập tại Công ty Dệt may Hà nội,
em đã nghiên cứu hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty và chọn đề tài “Một
số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty Dệt
may Hà nội” với mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận về hoạt động xuất khẩu và
thực tiến hoạt động xuất khẩu của Công ty để đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của Công ty.
123 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2188 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty Dệt may Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy
hoạt động kinh doanh xuất khẩu
của Công ty Dệt may Hà nội
Lời mở đầu
Từ sau Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IV đến nay, nước ta đã có nhiều
đổi mới quan trọng, đặc biệt là việc chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao
cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Nền kinh tế mở cửa đã tạo điều kiện cho thương
mại quốc tế phát triển nhằm đảm bảo sự lưu thông hàng hoá thông thương với nước
ngoài, khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta và của thế giới trên cơ sở phân
công lao động quốc tée.
Đối với Việt Nam cũng như tất cả các nước trên thế giới, hoạt động xuất khẩu
đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế và xây dựng đất
nước. Nó như là một phương tiên phục vụ nhu cầu nhập khẩu, cải tiến công nghệ, kỹ
thuật hiện đại, nâng cao chất lượng sản phẩm. Hơn thế, hoạt động xuất khẩu còn là
một yếu tố không thể thiếu trong việc triển khai thực hiện chương trình công nghiệp
hoá - hiện đại hoá đất nước.
Trong cơ cấu hàng công nghiệp xuất khẩu thì hàng dệt may chiếm tỉ trọng đáng
kể, xuất khẩu chủ lực. Hơn nữa sự thành công về xuất khẩu trong ngành dệt may
thường mở đường cho sự xuất hiện của một chiến lược phát triển định hướng xuất
khẩu có cơ sở rộng hơn vì đây là một ngành công nghiệp quan trọng: sự tăng trưởng
của ngành này cho thấy kết quả hoạt động kinh tế một cách tổng thể hơn.
Xuất phát từ vấn đề thực tiễn, trong quá trình thực tập tại Công ty Dệt may Hà nội,
em đã nghiên cứu hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty và chọn đề tài “Một
số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty Dệt
may Hà nội” với mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận về hoạt động xuất khẩu và
thực tiến hoạt động xuất khẩu của Công ty để đề xuất một số giải pháp thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu của Công ty.
Chuyên đề được chia làm 3 phần:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Dệt may Hà
nội
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở
Công ty Dệt may Hà nội
Với khả năng nghiên cứu và thời gian hạn chế, chuyên đề này không tránh khỏi
những sai sót và khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự góp ý bổ sung của thầy cô
và bạn bè.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Đoàn Thị Thu Hà và các cán bộ
Phòng xuất nhập khẩu của Công ty Dệt may Hà nội đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong
quá trình hoàn thiện đề tài này.
Chương I
tổng quan về hoạt động kinh doanh xuất khẩu
I. khái niệm và vai trò của kinh doanh xuất khẩu
1. Khái niệm của hoạt động kinh doanh xuất khẩu
Kinh doanh xuất nhập khẩu là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ giữa các nước thông
qua hành vi mua bán. Sự trao đổi đó là một hình thức của mối quan hệ xã hội và phản
ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá riêng biệt
của các quốc gia khác nhau trên thế giới.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đối với một quốc gia là cần thiết, có ý nghĩa
sống còn vì nó khai thác được lợi thế so sánh của nước xuất khẩu và mở rộng ra tiêu
dùng trong nước nhập khẩu; kinh doanh xuất nhập khẩu cho phép một nước tiêu dùng
tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có thể tiêu dùng, với danh giới của
đường khả năng sản xuất trong nước đó (nếu thực hiện tự cung, tự cấp, không có quan
hệ buôn bán).
Xuất khẩu là việc ban sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài nhằm
mục đích đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, thu ngoại
tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao
đời sống nhân dân. Khác với việc mua bán sản phẩm trong thị trường nội địa, hoạt
động xuất khẩu phức tạp hơn nhiều. Đây là hoạt động giao dịch buôn bán giữa những
người có quốc tịch khác nhau, thị trường vô cùng rộng lớn, khó kiểm soát, đồng tiền
thanh toán mạnh, các quốc gia khác nhau tham gia vào hoạt động giao dịch, buôn bán
này phải tuân thủ theo những tập quán, thông lệ quốc tế cũng như của các địa phương.
Hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện, từ xuất
nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng cho đến tư liệu sản xuất, máy móc thiết bị và cả công
nghệ kỹ thuật cao. Tất cả các hoạt động trao đổi này đều nhằm mục đích đem lại lợi
ích cho các quốc gia tham gia.
Hoạt động xuất nhập khẩu còn diễn ra trên phạm vi rất rộng cả về không gian lẫn
thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, song cũng có thể kéo dài hàng
năm, có thể tiến hành trên phạm vi lãnh thổ một nước hany nhiều nước khác nhau. Nó
không phải là những hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ mua
bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Song hoạt động
mua bán ở đây có những sự khác biệt phức tạp hơn mua ban trong nước, các chủ thể
thực hiện hành vi mua bán có quốc tịch khác nhau và hàng hoá đựơc mua ban được
đưa tới một quốc gia khác.
2. Vai trò của hoạt động kinh doanh xuất khẩu
2.1. Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất
nước.
Công nghiệp hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để
khắc phục tình trạng nghèo và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá đất
nước trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc,
thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Nguồn vốn để nhập khẩu có thể được hình thành từ các nguồn như:
- Đầu tư nước ngoài
- Vay nợ, viện trợ
- Thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ
- Xuất khẩu
Các nguồn vốn như đầu tư nước ngoài, vay nợ và viện trợ ….tuy quan trọng,
nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay cách khác ở thời kỳ sau này. Nguồn vốn
quan trọng nhất để nhập khẩu, công nghiệp hoá đất nước là xuất khẩu. Xuất khẩu
quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu. Trong thực tiễn nhập khẩu và xuất
khẩu có quan hệ mật thiết với nhau, vừa là kết quả vừa là tiền đề của nhau, đẩy mạnh
xuất khẩu là để tăng cường nhập khẩu, tăng nhập khẩu để mở rộng và tăng khả năng
xuất khẩu. Cho nên trong kinh doanh phải luôn luôn kết hợp giữa xuất khẩu và nhập
khẩu, kết hợp trong sản xuất, kết hợp trong mua ban, kết hợp trên từng thị trường, kết
hợp giữa các mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu.
Trong tương lai, nguồn vốn bên ngoài sẽ tăng lên. Nhưng mọi cơ hội đầu tư và
vay nợ của nước ngoài và các tổ chức quốc tế chỉ thuậ lợi khi các chủ đầu tư và người
cho vay thấy được khả năng xuất khẩu - nguồn vốn duy nhất để trả nợ - trở thành hiện
thực.
2.2. Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
phát triển
Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi vô cùng mạnh mẽ.
Đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại. Sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá phù hợp với xu hướng phát triển cuả
kinh tế thế giới là tất yếu đối với nước ta. Vì vậy xuất khẩu có vai trò quan trọng đối
với sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi. Ví dụ
khi xuất khẩu ngành dệt, may phát triển sẽ tạo điều kiện cho ngành bông phát triển.
- Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thu góp phần cho sản xuất
phát triển và ổn định.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản xuất nâng
cao năng lực sản xuất.
- Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng
lực sản xuất trong nước.
- Xuất khẩu tạo điều kiện đưa hàng hoá tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị
trường thế giới về giá cả, chất lượng.
- Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công
việc quản trị sản xuất và kinh doanh.
2.3. Xuất khẩu có tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống của nhân dân.
Nhờ mở rộng xuất khẩu mà một bộ phận người lao động có công ăn việc làm và
có thu nhập. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết
yếu phục vụ đời sống và đáp ứng ngày một phong phú thêm nhu cầu tiêu dùng của
nhân dân.
2.4. Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của
nước ta.
Xuất khẩu và các quan hệ kinh tế đối ngoại có tác động qua lại phụ thuộc lẫn
nhau. Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại. Có thể hoạt động xuất khẩu có
sớm hơn các hoạt động kinh tế đối ngoại khác, tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ đối
ngoại phát triển như: quan hệ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác,
chính các quan hệ kinh tế đối ngoại này tạo điều kiện mở rộng xuất khẩu.
Vì vậy đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế giữa các
nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên trường quốc tế.
2.5. Xuất khẩu có vai trò tác động kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ
sản xuất.
Để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới về quy cách chất lượng sản phẩm
thì một mặt sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác người lao động
phải nâng cao tay nghề, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến.
Tóm lại đẩy mạnh xuất khẩu được coi là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát
triển kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá đất nước.
ii. những vấn đề cơ bản của hoạt động kinh doanh xuất khẩu
1. Chức năng, nhiệm vụ của kinh doanh xuất khẩu
Kinh doanh xuất khẩu là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội nên nó có các
chức năng cơ bản sau:
- Tạo vốn và kỹ thuật bên ngoài cho quá trình sản xuất trong nước.
- Thay đổi cơ cấu vật chất của sản phẩm có lợi cho quá trình tái sản xuất.
- Tăng hiệu quả sản xuất.
Do đặc điểm kinh tế - xã hội, đường lối xây dựng nền kinh tế của Đảng và Nhà
nước ta trong từng giai đoạn, phù hợp các chức năng trên. Nhiệm vụ cơ bản của kinh
doanh xuất khẩu trong giai đoạn hiện nay là:
- Tạo vốn nước ngoài cần thiết để nhập khẩu vật tư - kỹ thuật, xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Xuất khẩu có nhiệm vụ khai thác có hiệu quả lợi thế tuyệt đối và tương đối của
đất nước, kích thích các ngành kinh tế phát triển.
- Thông qua hoạt động kinh doanh xuất khẩu, phát huy và sử dụng tốt hơn nguồn
vốn lao động và tài nguyên của đất nước, tăng giá trị ngày công lao động, tăng thu
nhập quốc dân.
- Kinh doanh xuất khẩu phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế, nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động.
- Kinh doanh xuất khẩu góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại để nâng
cao uy tín của nước ta trên thị trường quốc tế, góp phần thực hiệ đường lối đối ngoại
của Nhà nước.
2. Các hình thức kinh doanh xuất khẩu
Xuất khẩu có thể được tổ chức theo nhiều cách thức khác nhau phụ thuộc vào số
lượng và loại hình các trung gian thương mại. Trong một số trường hợp công ty sử
dụng các đại lý xuất và nhập khẩu sẽ làm thay toàn bộ các chức năng của công ty.
Thông thường xuất khẩu có các dạng chủ yếu sau:
2.1. Theo nghị định thư
Xuất khẩu theo nghị định thư là hình thức xuất khẩu hàng hoá (hàng trả nợ) được
ký theo nghị định thư của Chính phủ.
Xuất khẩu theo hình thức này có ưu điểm: khả năng thanh toán chắc chắn (do Nhà
nước trả cho đối tác xuất khẩu), giá cả hàng hoá dễ chấp nhận.
2.2. Xuất khẩu trực tiếp
Giống với các hoạt động mua bán thông thường ở trong nước, phương thức xuất
khẩu trực tiếp trong kinh doanh xuất nhập khẩu có thể được thực hiện ở mọi lúc mọi
nơi trong đó người bán và người mua trực tiếp quan hệ với nhau bằng cách gặp mặt
hoặc qua thư từ, điện tín để bàn bạc và thoả thuận với nhau về hàng hoá, giá cả và các
điều kiện giao dịch. Những nội dung này được thoả thuận một cách tự nguyện, không
có sự ràng buộc với lần giao dịch trước, việc mua không nhất thiết phải gắn liền với
việc bán.
Tuy nhiên, hoạt động mua bán theo phương thức này vẫn khác với hoạt động nội
thương ở chỗ: bên mua và bên bán là những người có trụ sở ở các quốc gia khác
nhau: đồng tiền thanh toán có thể là ngoại tệ đối với một trong hai bên hoặc đối với
cả hai bên; hàng hoá là đối tượng của giao dịch được di chuyển qua khỏi biên giới
một nước.
Xuất khẩu trực tiếp thường đòi hỏi chi phí cao hơn và ràng buộc nguồn lực lớn để
phát triển thị trường. Tuy vậy, công ty đạt được nỗ lực bán và xúc tiến hiệu quả hơn
và cho phép công ty duy trì được sự kiểm soát ở mức độ lớn tất cả các điều kiện mà
trong đó sản phẩm được bán ở thị trường quốc tế. Mặt khác, xuất khẩu trực tiếp còn
cho phép công ty có sự liên hệ trực tiếp với thị trường, nắm bắt được phản ứng của thị
trường để tìm ra những cơ hội mới và những xu hướng mới của thị trường, quản lý
các hoạt động, nắm bắt hiểu biết các đối thủ cạnh tranh để điều chỉnh những kế hoạch
thích ứng.
2.3. Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức giao dịch qua trung gian tức là mọi việc kiến lập
quan hệ giữa người bán và người mua và việc quy định các điều kiện mua bán đều
phải thông qua một người thứ ba. Người thứ ba này gọi là người trung gian buôn bán,
người trung gian buôn bán phổ biến trên thị trường là đại lý và môi giới. Đặc biệt là
trong những trường hợp, ở đó đại lý hoặc môi giới xuất khẩu nắm quyền sở hữu về
hàng hoá, công ty không gặp phải rủi ro đối với hoạt động xuất khẩu và không phải
mất nhiều thời gian cho nó. Xuất khẩu với hình thức này được so sánh như bán hàng
ở trong nước.
Hình thức xuất khẩu này thường phù hợp với công ty mà mục tiêu mở rộng ra thị
trường nước ngoài hạn chế. Nếu như bán hàng quốc tế được xem như là cách thức để
sử dụng hết công suất dư thừa của sản xuất thì việc sử dụng các đại lý là rất phù hợp.
Các công ty lựa chọn hình thức xuất khẩu này thường có nguồn lực hạn chế giành cho
mở rộng thị trường quốc tế, muốn xâm nhập dần dần, thử nghiệm thị trường trước khi
đầu tư các nguồn lực
Tuy nhiên các công ty cần nhận thức vấn đề quan trọng đó là: việc sử dụng các đại
lý và các công ty chuyên xuất khẩu mang lại một số rủi ro.
- Công ty không hoặc chỉ kiểm soát được ở mức độ thấp toàn bộ cách thức hàng
hoá và dịch vụ được bán ở thị trường nước ngoài. Sản phẩm có thể được bán qua
những kênh phân phối không thích hợp với dịch vụ và nỗ lực bán hạn chế. Điều này
có thể ảnh hưởng lớn đến uy tín và hình ảnh sản phẩm của công ty ở thị trường nước
ngoài.
- Công ty kinh doanh có những thông tin rất hạn chế về tiềm năng thị trường nước
ngoài và hạn chế về yếu tố đầu vào để triển khai kế hoạch mở rộng thị trường quốc tế.
Xuất khẩu qua trung gian hiện còn chiếm khoảng 52% kim ngạch buôn bán thế
giới.
2.4. Hợp tác xuất khẩu
Trong trường hợp này công ty thoả thuận hợp tác với một công ty khác để phối
hợp các hoạt động nghiên cứu, xúc tiến thương mại, vận tải, phân phối và các hoạt
động khác liên quan đến thị trường xuất khẩu. Hình thức này được áp dụng đối với
công ty bị hạn chế nguồn lực hoặc khối lượng bán không đủ lớn để thiết lập một bộ
phận xuất khẩu.
Một dạng khác của hợp đồng hợp tác xuất khẩu trong marketing quốc tế là dựa
vào một công ty khác, trong đó một công ty tiếp thị sản phẩm của mình thông qua tổ
chức phân phối của một công ty khác ở thị trường nước ngoài. Nhìn chung những sản
phẩm được bán bởi 2 công ty phải phù hợp với mức độ cạnh tranh để sản phẩm của
công ty góp phần mở rộng danh mục sản phẩm của công ty phân phối.
2.5. Buôn bán đối lưu
Đây là phương thúc giao dịch buôn bán mà trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ
với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng trao đổi luôn có giá trị
tương đương nhau. ở đây mục đích xuất khẩu không nhằm thu một khoản ngoại tệ,
mà nhằm thu về một lượng hàng hoá có giá trị xấp xỉ lô hàng xuất. Có nhiều loại hình
buôn bán đối lưu như:
- Hình thức hàng đổi hàng: hai bên trao đổi trực tiếp hàng hoá, dịch vụ có giá trị
tương đương, không dùng tiền làm trung gian.
- Hình thức trao đổi bù trừ: đây là hình thức xuất khẩu liên kết với nhập khẩu
ngay trong hợp đồng, có thể bù trừ trước hay song song.
- Nghiệp vụ buôn bán đối lưu: thường một bên giao thiết bị cho bên kia rồi mua
thành phẩm hay bán thành phẩm.
2.6. Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là một hình thức kinh doanh sản xuất hoạt động xuất khẩu, trong
đó một bên, gọi là bên đặt gia công ở nước ngoài cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên
vật liệu hoặc bán thành phẩm theo mẫu và định mức cho trước. Người nhận gia công
ở trong nước tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng. Toàn
bộ sản phẩm làm ra người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để nhận
tiền công (phí gia công).
Giao công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương của nhiều
nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ lợi dụng được giá rẻ về
nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhân gia công. Đối với bên nhận gia công,
phương thức này giúp họ giải quyết được công ăn việc làm cho nhân dân lao động
trong nước hoặc nhận được thiết bị hay công nghệ mới về nước mình, nhằm xây dựng
một nền công nghiệp dân tộc. Nhiều nước đang phát triển đã nhờ vận dụng phương
thức gia công quốc tế mà có được một nền công nghiệp hiện đại, chẳng hạn như Nam
Triều Tiên, Thái Lan, Xingáp…
3. Các bước tiến hành kinh doanh xuất khẩu
Ngoài những điểm giống như hoạt động thương mại trong nước, hoạt động kinh
doanh đối ngoại còn có những nét riêng, phức tạp hơn nhiều như: bạn hàng ở cách xa
nhau, hoạt động chịu sự điều tiết của nhiều hệ thống luật pháp, hệ thống tiền tệ - tài
chính khác nhau v.v… Do đó để cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả thì
các đơn vị kinh doanh xuất khẩu nên tiến hành theo các bước sau:
Marketing
3.1. Marketing
Điều tra xem nên buôn ban gì, bằng phương pháp nào để quyết định phương châm
buôn ban.
3.1.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường
Ngoài việc nắm vững tình hình trong nước và đường lối chính sách, luật lệ quốc
gia có liên quan đến hoạt động kinh tế đối ngoại, đơn vị kinh doanh ngoại thương cần
phải nhận biết hàng hoá kinh doanh, nắm vững thị trường và lựa chọn đối tác kinh
doanh.
+ Nhận biết hàng hoá
Hàng hóa xuất khẩu phải được tìm hiểu kỹ về thương phẩm để hiểu rõ giá trị, công
dụng, nắm được những đặc tính của nó và những yêu cầu của thị trường về hàng hoá
đó như: quy cách phẩm chất bao bì, cách trang trí bên ngoài, cách chọn lựa phân
loại….
Bán hàng
Thực hiện
hợp đồng
Tiếp tục hoạt
động buôn
bán
Cũng cần nắm vững tình hình sản xuất của mặt hàng đó như: thời vụ, khả năng về
nguyên vật liệu, nhân công, tay nghề, nguyên lý chế tạo…
Ngoài ra cũng phải biết mặt hàng định lựa chọn đang ở giai đoạn nào của chu kỳ
sống của nó trên thị trường; nếu sản phẩm đang ở giai đoạn thâm nhập hay phát triển
thì việc xuất khẩu gặp thuận lợi lớn.
Để lựa chọn mặt hàng kinh doanh, một căn cứ nữa cũng được xét tới là tỷ suất
ngoại tệ của các mặt hàng. Tỷ suất này, trong trường hợp xuất khẩu, là tổng số chi
tiêu (có tính cả lãi định mức) bằng tiền Việt Nam để có được một đơn vị ngoại tệ.
+ Nắm vững thị trường nước ngoài
Đối với những đơn vị kinh doanh đối ngoại việc nghiên cứu thị trường nước ngoài
có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong việc nghiên cứu đó, những nội dung cần
nắm vững về một thị trường ngoài nước là: những điều kiện chính trị - thương mại
chung, luật pháp và chính sách buôn ban, điều kiện về tín dụng, điều kiện vận tải và
tình hình giá cước…
Ngoài ra đơn vị kinh doanh cần nắm vững những điều có liên quan đến mặt hàng
kinh doanh của mình trên trị trường nước ngoài như: dung lượng thị trường, tập quán
và thị hiếu tiêu dùng, những kênh tiêu thụ (các phương thức tiêu thụ), sự biến động
giá cả…
+ Lựa chọn đối tác kinh doanh
Việc nghiên cứu tình hình thị trường giúp cho đơn vị kinh doanh lựa chọn thị
trường, thời cơ thuận lợi, lựa chọn phương thức mua ban và điều kiện giao dịch thích
hợp. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, kết quả hoạt độ