Tập đọc là một trong những phân 
môn có vị trí quan trọng trong việc dạy 
tiếng Việt ở tr-ờng tiểu học, nó thể hiện 
tính tích hợp cao trong rèn luyện các kỹ 
năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh. 
Tập đọc cùng với các phân môn nh-: 
Học vần, Tập viết là nhóm phân môn 
khởi đầu giúp học sinh biết đọc, biết 
viết để học tập tiếng Việt cũng nh- các 
môn học khác, nhằm chiếm lĩnh kho 
tàng tri thức trong nhà tr-ờng và tri 
thức của nhân loại nói chung. Chính vì 
vậy, việc quan tâm đến nội dung 
ch-ơng trình cũng nh- đề ra ph-ơng 
pháp dạy học môn Tập đọc là một yêu 
cầu đặt ra hết sức cấp bách.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
12 trang | 
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8011 | Lượt tải: 2
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số nhận xét về nội dung chương trình phân môn tập đọclớp 2, lớp 3 và phương pháp dạy học phù hợp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 77
Một số nhận xét về nội dung ch−ơng trình phân môn Tập 
đọc lớp 2, lớp 3 và ph−ơng pháp dạy học phù hợp 
 Nguyễn Đình Tuấn (a) 
Tóm tắt. Bài viết này đi sâu tìm hiểu nội dung ch−ơng trình phân môn Tập đọc 
(ở sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 và lớp 3), trong đó có văn bản hội thoại. Vận dụng 
lý thuyết hội thoại, chúng tôi nêu lên cách dạy phù hợp: Dạy đọc cho học sinh luôn 
gắn với ngữ cảnh; với nhân vật giao tiếp; với nội dung nghĩa của phát ngôn. 
 1. Đặt vấn đề 
 Tập đọc là một trong những phân 
môn có vị trí quan trọng trong việc dạy 
tiếng Việt ở tr−ờng tiểu học, nó thể hiện 
tính tích hợp cao trong rèn luyện các kỹ 
năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh. 
Tập đọc cùng với các phân môn nh−: 
Học vần, Tập viết là nhóm phân môn 
khởi đầu giúp học sinh biết đọc, biết 
viết để học tập tiếng Việt cũng nh− các 
môn học khác, nhằm chiếm lĩnh kho 
tàng tri thức trong nhà tr−ờng và tri 
thức của nhân loại nói chung. Chính vì 
vậy, việc quan tâm đến nội dung 
ch−ơng trình cũng nh− đề ra ph−ơng 
pháp dạy học môn Tập đọc là một yêu 
cầu đặt ra hết sức cấp bách. 
 2. Nhận xét chung về nội dung 
ch−ơng trình 
 2.1. Nguyên tắc chỉ đạo 
 Các nguyên tắc chỉ đạo việc soạn 
thảo ch−ơng trình và sách giáo khoa là 
nguyên tắc giao tiếp, nguyên tắc tích 
cực hoá hoạt động của học sinh, tận 
dụng những kinh nghiệm sử dụng 
tiếng Việt của học sinh, nguyên tắc 
tích hợp, đặc biệt chú ý kết hợp dạy 
tiếng Việt với dạy văn hoá và văn học. 
Nội dung dạy Tập đọc theo quan điểm 
giao tiếp trong SGK tiếng Việt lớp 2, 
lớp 3 đ−ợc thể hiện ở sự đa dạng của 
các loại hình văn bản: truyện kể, thơ, 
văn bản miêu tả, văn bản khoa học, 
văn bản báo chí, văn bản giao dịch 
thông th−ờng. Sự đa dạng của các loại 
văn bản tạo điều kiện cho học sinh 
đ−ợc tiếp xúc với nhiều mảng hiện 
thực, mở rộng hiểu biết về cuộc sống, 
đồng thời cũng giúp các em làm quen 
với nhiều phong cách tạo lập văn bản, 
ứng dụng đ−ợc những kiểu văn bản 
trong thực hành giao tiếp. Trong cuộc 
sống hàng ngày, ng−ời ta không chỉ đọc 
các tác phẩm văn học mà còn phải đọc 
nhiều loại văn bản khác, vì vậy sự có 
mặt của nhiều loại văn bản đọc trong 
phân môn Tập đọc là một yêu cầu cần 
thiết. Quan điểm giao tiếp trong dạy 
học Tập đọc còn đ−ợc thể hiện ngay 
trong từng bài đọc, đó là sự xuất hiện 
khá nhiều văn bản đọc có lời thoại. 
 Trong giờ Tập đọc, học sinh chủ 
yếu luyện đọc trơn, đọc hiểu và cả tập 
nói, nghe. Việc thực hiện yêu cầu đọc 
hiểu còn ở mức độ thấp. Học sinh học 
xong bài cần nhớ nội dung vừa đọc và 
kể lại, thuật lại nội dung đó. Với một số 
bài có yêu cầu các em hiểu đựơc ý nghĩa 
hiển ngôn của văn bản. 
 2.2. Nội dung ch−ơng trình 
 ở lớp 2, mỗi tuần có 4 tiết Tập đọc. 
Sách giáo khoa chia làm 15 đơn vị học, 
mỗi đơn vị đ−ợc thực hiện trong 2 tuần, 
Nhận bài ngày 03/12/2006. Sửa chữa xong 01/2/2007. 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 78
đ−ợc sắp xếp nh− sau: 
 Tuần 1: Một truyện kể (2 tiết) 
 Một văn bản thông th−ờng (1 
tiết) 
 Một văn bản thơ (1 tiết) 
 Tuần 2: Một truyện kể (2 tiết) 
 Một văn bản miêu tả (1 tiết) 
 Một truyện vui (1 tiết) 
 ở lớp 3, mỗi tuần có khoảng 3,5 tiết 
Tập đọc (mỗi tuần có một bài 2 tiết 
chung với kể chuyện). Phần Tập đọc 
trong mỗi đơn vị học đ−ợc sắp xếp nh− 
sau: 
 Tuần 1: Một truyện kể ≈ 1,5 tiết 
 Một văn bản thơ = 1 tiết 
 Một văn bản thông th−ơng = 1 
tiết 
 Tuần 2: Một truyện kể ≈ 1,5 tiết 
 Một văn bản thơ = 1 tiết 
 Một văn bản miêu tả = 1 tiết 
 2.3. Nhận xét về các văn bản đọc có 
lời thoại trong sách giáo khoa tiếng Việt 
lớp 2, lớp 3 
 2.3.1. Nhận xét chung về thể loại 
văn bản 
 Qua khảo sát, chúng tôi thấy thể 
loại văn bản ở lớp 2, lớp 3 có những đặc 
điểm sau: 
 a. Thời l−ợng dành cho việc học 
đọc các văn bản là văn xuôi nhiều hơn 
thơ. Trong văn bản văn xuôi bài đọc có 
lời thoại chiếm tỉ lệ khá lớn, ở lớp 2 cao 
hơn lớp 3: ở lớp 2 là 59,1% và ở lớp 3 là 
41,38%. Văn bản đọc có lời thoại gồm các 
thể loại: truyện, báo chí, tản văn. 
 Truyện bao gồm những câu 
chuyện nguyên bản hoặc những trích 
đoạn tác phẩm (có thể điều chỉnh chút 
ít cho phù hợp với dung l−ợng của tiết 
học và yêu cầu rèn luyện kỹ năng tiếng 
Việt cho học sinh), truyện th−ờng có cốt 
truyện, nhân vật. Truyện bao gồm 
truyện cổ dân gian (trong và ngoài 
n−ớc), truyện dân gian do các nhà văn 
sáng tác dành riêng cho trẻ em sau này, 
trong đó có cả truyện đồng thoại - một 
thể loại mang những đặc điểm hình 
thức khá giống truyện ngụ ngôn. 
 Báo chí (còn gọi là văn bản 
truyền thông) đ−ợc dùng với mục đích 
thông tin, tuyên truyền, phổ biến kiến 
thức. Tuy nhiên, ở lớp 2, lớp 3, văn bản 
báo đ−ợc sử dụng chủ yếu với mục đích 
phổ biến kiến thức. Văn bản báo chí có 
lời thoại nh− Một tr−ờng Tiểu học vùng 
cao; Ng−ời con của Tây Nguyên. 
 Tản văn (đ−ợc phân biệt với 
truyện ở mức độ và dung l−ợng thể 
hiện) là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm 
súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, 
miêu tả, khắc hoạ nhân vật, không nhất 
thiết có cốt truyện, nhân vật hoàn 
chỉnh. Mục đích của tản văn là tái hiện 
đựơc các nét chính của các hiện t−ợng 
giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình 
cảm, ý nghĩ của tác giả. Đây chính là cơ 
sở để coi các bài văn miêu tả, văn xuôi 
trữ tình,... đ−ợc sử dụng trong SGK là 
tản văn. Khi dạy đọc các văn bản này, 
giáo viên cần giúp học sinh cảm thụ 
đ−ợc giá trị nội dung và nghệ thuật của 
chúng. 
 b. Hầu hết các văn bản có lời 
thoại là những văn bản có cốt truyện, có 
nhân vật. Một số kiểu câu hội thoại 
thông th−ờng đều đ−ợc các nhân vật 
trong bài đọc dùng để giao tiếp. Đây 
chính là một lợi thế để các em vận dụng 
vào giao tiếp hàng ngày trong môi 
tr−ờng hoạt động lứa tuổi. 
 c. Hầu hết các văn bản đều có 
yêu cầu về kỹ năng đọc thành tiếng rõ 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 79
ràng, rành mạch, thể hiện đúng tình 
cảm, thái độ của nhân vật, các tình tiết, 
hình ảnh trong tất cả bài đọc. Tất 
nhiên, trong các bài đọc có lời thoại, yêu 
cầu này đ−ợc thể hiện rõ nét hơn. Đồng 
thời trong các bài đọc có lời thoại, tính 
tích hợp liên phân môn trong rèn luyện 
các kỹ năng cho học sinh cũng đ−ợc bộc 
lộ nhiều hơn. Và cũng qua các bài đọc có 
lời thoại, các em đ−ợc rèn luyện kỹ năng 
đọc diễn cảm tốt hơn, đọc phân vai tốt 
hơn. 
 d. Các câu hỏi tìm hiểu bài trong 
SGK cũng đã định h−ớng và giúp các 
em tìm hiểu nhân vật, cốt truyện của 
bài. Đặc biệt, việc tìm hiểu các truyện 
vui giúp các em rèn luyện óc t−ởng 
t−ợng, khiếu hài h−ớc. ở lớp 2 hầu hết 
các chủ điểm đều có truyện vui. 
 e. Các bài đọc có lời thoại trong 
phân môn Tập đọc lớp 2, lớp 3 thể hiện 
tính uyển chuyển, linh hoạt thích hợp 
với nhu cầu và tâm lí lứa tuổi tiểu học. 
Bên cạnh kênh chữ, SGK môn tiếng 
Việt nói chung và phân môn Tập đọc 
nói riêng rất quan tâm đến vai trò của 
kênh hình. Để tăng tính hấp dẫn, kênh 
hình đ−ợc lựa chọn vừa hàm chứa nội 
dung bài, vừa mang dấu ấn ngộ nghĩnh 
của tuổi thơ. Điều này tạo hứng thú 
hơn khi các em học Tập đọc nói riêng 
và tiếng Việt nói chung. 
 2.3.2. Nhận xét về kiểu câu 
trong các bài đọc có lời thoại ở lớp 2, lớp 
3 
 Trong các văn bản đọc có lời 
thoại ở lớp 2 và lớp 3, các kiểu câu hội 
thoại đ−ợc dùng khá đa dạng và phong 
phú. Nhóm câu t−ờng thuật (trong đó 
gồm cả câu khẳng định và câu phủ 
định) chiếm tỉ lệ khoảng 49,81%; tiếp 
theo là nhóm câu hỏi chiếm 16,24%; 
nhóm câu cầu khiến khoảng 14,98%; 
nhóm câu cảm thán khoảng 12,65%; 
nhóm câu khác khoảng 4,86%. Vì vậy, 
ở phần nội dung chính của bài viết này, 
chúng tôi đi sâu phân tích hai nhóm 
câu hỏi và câu cầu khiến (thể hiện rõ 
nhất đặc điểm lời thoại nhân vật) và 
đ−a ra ph−ơng pháp dạy phù hợp. 
 2.3.3. Nhận xét về nhân vật, ngữ 
cảnh và nội dung trong các bài đọc có lời 
thoại ở lớp 2, lớp 3 
 a. Về thế giới nhân vật 
 Trong văn bản có lời thoại ở lớp 
2, lớp 3, ta bắt gặp thế giới nhân vật 
khá đa dạng: nhân vật là những ng−ời 
thật, hay đ−ợc h− cấu, hoặc là những 
loài vật đ−ợc nhân hoá. 
 Về nhân vật thật, nhân vật xuất 
hiện nhiều nhất là các em thiếu nhi, 
học sinh, ông, bà, bố, mẹ. Tiếp đó, ta bắt 
gặp nhân vật là th−ờng dân, viên quan, 
ông vua, ng−ời làm đồ chơi, bác bán 
kính, nhà bác học, bác sĩ. Tiếp theo, 
hình ảnh Bác Hồ, anh bộ đội cũng là các 
nhân vật có trong các văn bản đọc. 
 Về thế giới nhân vật thần linh, 
ta bắt gặp các vị thần: Thần Chết, Thần 
Đêm tối, Thần Gió, Th−ợng đế… 
 Về thế giới các loài vật đ−ợc 
nhân hoá, ta bắt gặp: Hoa Giấy, Mít, 
Chồn, Gà Rừng, Cò, Cuốc, Sói, Ngựa, 
Lừa, Khỉ, Tôm, Cá, Cây cối,… 
 Về nhân vật là các sự vật, hiện 
t−ợng đ−ợc nhân hoá ta bắt gặp: Đất, 
Hồ N−ớc, mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông,… 
 Sự đa dạng của thế giới nhân vật 
đã đ−a các em vào một thế giới muôn 
màu, muôn vẻ, sống động và lí thú. 
Điều này tạo cho học sinh hứng thú học 
tập cao. 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 80
 b. Về ngữ cảnh 
 Ngữ cảnh là không gian-thời 
gian trong đó lời thoại nhân vật đ−ợc 
thể hiện. Ngữ cảnh mà các kiểu câu hội 
thoại th−ờng xuất hiện trong văn bản ở 
lớp 2, lớp 3 cũng hết sức phong phú. Sự 
phong phù này là do: a/ sự xuất hiện 
của khá nhiều thể loại văn bản, b/ sự đa 
dạng về thế giới nhân vật. Chẳng hạn 
nh− vua, quan thì thời gian để lời thoại 
xuất hiện phải là ngày x−a, trong Triều 
đình; Th−ợng đế thì gắn với Thiên đình; 
Cá, Tôm phải d−ới n−ớc; ông bà, bố, mẹ 
thì trong gia đình… Tuy vậy, ngữ cảnh 
mà các kiểu câu hội thoại diễn ra nhiều 
hơn cả là: Gia đình, nhà tr−ờng, thế giới 
c− trú của loài vật. 
 d. Về nội dung 
 Nội dung mà các nhân vật 
th−ờng đề cập đến là những vấn đề thật 
đơn giản, có ý nghĩa giáo dục. Do đặc 
điểm tâm sinh lí, nhận thức của học 
sinh tiểu học mà các tác giả biên soạn 
sách giáo khoa xây dựng theo hai trục 
chủ điểm và kỹ năng. Trục kĩ năng 
th−ờng gắn với yêu cầu cụ thể của mỗi 
bài. Còn chủ điểm là những nội dung 
xung quanh cuộc sống, hoạt động lứa 
tuổi của các em. Thông qua các bài đọc, 
các nhân vật trong sách giáo khoa tiếng 
Việt lớp 2, lớp 3 nói chung và trong văn 
bản đọc có lời thoại nói riêng nhằm giáo 
dục tình cảm gia đình gắn bó, giáo dục 
tình yêu quê h−ơng đất n−ớc, mở rộng 
hiểu biết cho các em về thế giới xung 
quanh… 
 Tóm lại, ch−ơng trình tiếng Việt 
lớp 2, lớp 3 nhằm đáp ứng mục tiêu rèn 
luyện các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết 
cho học sinh tiểu học. Mục tiêu rèn 
luyện kỹ năng đọc đã đ−ợc tập trung 
dạy với nhiều loại văn bản đọc đa dạng, 
phong phú về nội dung và thể loại, tạo 
đ−ợc nhu cầu và hứng thú học tập cho 
học sinh. Ch−ơng trình này cũng coi 
trọng vai trò của viêc thực hành giao 
tiếp trong dạy học Tập đọc. Đây chính 
là cơ sở để phát triển năng lực sử dụng 
tiếng Việt nói chung và phát triển kỹ 
năng đọc cho học sinh tiểu học nói 
riêng. Trên cơ sở thực tiễn đã khảo sát, 
phân tích ch−ơng trình và yêu cầu dạy 
học của phân môn Tập đọc, chúng tôi đề 
xuất ph−ơng pháp dạy học đối với các 
văn bản có lời thoại . 
 3. Vận dụng lý thuyết hội thoại 
để dạy Tập đọc cho học sinh lớp 2, 
lớp 3 theo các nhân tố hữu quan 
 3.1. Dạy đọc câu hội thoại trong 
văn bản phải tính đến đặc điểm nhận 
thức của học sinh 
 a. Đặc điểm tâm sinh lí: Các nhà 
tâm lí học đã nghiên cứu và chỉ ra một 
số đặc điểm tâm sinh lí ảnh h−ởng đến 
việc học tiếng mẹ đẻ của trẻ nhỏ: 
 - Giai đoạn thứ nhất là trẻ ở độ tuổi 
6 đến 9 hoặc 10 tuổi t−ơng ứng với trẻ ở 
các lớp 1, 2, 3. Giai đoạn này tri giác 
của các em còn đậm tính cảm xúc, số 
l−ợng chi tiết và tri giác ít. Trẻ th−ờng 
bị thu hút bởi các chi tiết ngẫu nhiên, 
khả năng tổng hợp, quan sát kém. Hoạt 
động phân tích, tổng hợp về hình thức 
cũng nh− nội dung còn mang tính trực 
quan rất rõ rệt. Trong hoạt động khái 
quát hoá, các em th−ờng căn cứ vào các 
dấu hiệu bề ngoài cụ thể, chứ ch−a l−u 
ý tới dấu hiệu chung, bản chất,… các 
em th−ờng phán đoán theo một chiều, 
dựa vào dấu hiệu duy nhất. Tuy nhiên, 
ở lứa tuổi này, các em đã có nhu cầu 
khám phá thế giới xung quanh, nhu cầu 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 81
đ−ợc thể hiện mình. Để thoả mãn nhu 
cầu ấy phải thông qua giao tiếp. Thông 
qua các cuộc thoại với bạn bè, với thầy 
cô, với ng−ời lớn mà dần các em khám 
phá ra thế giới của mình. Bởi vậy, ngay 
từ giai đoạn đầu các em phải đ−ợc cung 
cấp các nghi thức lời nói để các em 
tham gia vào môi tr−ờng giao tiếp theo 
lứa tuổi. Câu là đơn vị tối thiểu để tham 
gia giao tiếp. Do đặc điểm tâm sinh lí 
mà việc dạy câu hội thoại chỉ nên dừng 
ở những kiểu câu đơn giản (có trọng 
điểm hỏi, yêu cầu, đề nghị rõ ràng, 
ngắn gọn), gắn với những tình huống, 
ngữ cảnh, nhân vật cụ thể. Đồng thời 
các em phải đ−ợc thực hành nhiều. 
 - Giai đoạn thứ hai là trẻ ở lứa tuổi 
từ 10 đến 11 hoặc 12 tuổi, t−ơng ứng với 
trẻ ở các lớp 4, 5. Trẻ ở giai đoạn này đã 
biết tìm các dấu hiệu đặc tr−ng cho sự 
vật, biết phân biệt các sắc thái của chi 
tiết để đi đến so sánh, tổng hợp. Trẻ đã 
có khả năng tri giác sự vật nh− một 
chỉnh thể, có tính mục đích và ph−ơng 
h−ớng rõ ràng. Khi khái quát các em đã 
bắt đầu biết dựa vào dấu hiệu bản chất 
bên trong, những dấu hiệu chung để 
tìm ra khái niệm, qui luật. Các em đã 
nhìn thấy một sự vật có thể diễn biến 
theo nhiều hình thức, một hiện t−ợng co 
thể có nhiều nguyên nhân. Các em có 
khả năng lập luận phán đoán của mình. 
 Trong bài viết này chúng tôi chỉ 
tập trung chú ý vào đặc điểm tâm sinh 
lí của trẻ ở giai đoạn thứ nhất, t−ơng 
ứng với học sinh lớp 1, 2, 3. 
 b. Đặc điểm vốn ngôn ngữ của học 
sinh lớp 2, lớp 3. 
 Nh− chúng ta đã biết tiếng Việt đối 
với học sinh tiểu học không chỉ là môn 
học cung cấp tri thức mà nó còn là 
ph−ơng tiện để nhận thức. Từ khi lọt 
lòng mẹ trẻ đã biết giao tiếp với mẹ của 
chúng và những ng−ời xung quanh 
bằng các cử chỉ, hành động. Dần dần trẻ 
đ−ợc học nói cũng thông qua giao tiếp 
với mẹ và những ng−ời xung quanh. Và 
nh− vậy tiếng Việt đã đ−ợc trẻ lĩnh hội 
từ tr−ớc tuổi đến tr−ờng. Trẻ đã biết nói 
câu đầy đủ để mọi ng−ời hiểu, đã biết 
cách hô gọi thông th−ờng. Song đó chỉ là 
cách học tự phát. Tr−ớc khi trẻ đ−ợc vào 
lớp 1 thì ở tr−ờng mầm non trẻ đ−ợc hoà 
vào cuộc sống lứa tuổi và có sự chỉ bảo 
của cô giáo. Vì vậy, vốn ngôn ngữ của 
các em cũng đ−ợc rèn giũa trong sáng 
hơn qua từng câu nói. Tuy nhiên, chỉ 
khi đ−ợc vào học ở tr−ờng tiểu học trẻ 
mới đ−ợc học tiếng Việt một cách chính 
qui. 
 Nh− vậy, khi lên đến lớp 2, lớp 3 
thì trẻ đã có một trình độ ngôn ngữ 
nhất định, trình độ hiểu biết về câu của 
học sinh đã phong phú hơn. Mặc dù 
vậy, trẻ cũng mới chỉ biết dùng các câu 
đơn giản nh− câu có trạng ngữ chỉ địa 
điểm (trên, d−ới, trong, ngoài…) hay 
câu có trạng ngữ chỉ thời gian (sáng, 
tr−a, chiều, tối, hôm nay, ngày mai, 
hôm qua…) mà ít dùng câu có trạng 
ngữ chỉ mục đích (vì, để,…), chỉ điều 
kiện (nếu, giá, giá mà,…), chỉ nguyên 
nhân (do, vì, bởi…). Nh−ng một điều 
khá thú vị là về mặt ngữ pháp, trẻ ở lứa 
tuổi 7 - 8 tuổi có thể liên kết đ−ợc nhiều 
câu và đã biết sử dụng cả câu tỉnh l−ợc. 
 Qua những phân tích trên, ta thấy 
trình độ ngôn ngữ của học sinh lớp 2, 
lớp 3 đã phát triển và các em có đủ khả 
năng để lĩnh hội tri thức về tiếng Việt 
mà nhà tr−ờng cung cấp, trong đó có cả 
vấn đề về hội thoại. Điều đó cho phép 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 82
giáo viên có thể thiết kế, tổ chức giờ học 
Tập đọc theo h−ớng hội thoại để dạy 
câu hội thoại. 
 3.2. Dạy đọc câu hội thoại trong 
văn bản phải gắn với ngữ cảnh 
 Có thể nói, ngữ cảnh là nhân tố 
chung chi phối nội dung, thái độ, cảm 
xúc của lời thoại nhân vật, vì vậy, có 
thể xem đây là nhân tố cơ bản bao trùm 
lên toàn bộ văn bản, đ−a đến cách đọc 
khác nhau. 
 Không gian, thời gian chính là ngữ 
cảnh của hoạt động giao tiếp khi có hai 
(hoặc hơn hai) ng−ời giao tiếp với nhau. 
Cuộc giao tiếp đó có thể chỉ có dạng một 
cặp thoại, một tham thoại (tr−ờng hợp 
lời đáp là một sự im lặng) hoặc lớn hơn 
thì nó cũng phải diễn ra trong một 
không gian, thời gian nhất định. 
 Không gian hội thoại th−ờng là 
không gian sinh tồn gắn với mỗi thời 
đại mà cá nhân đó sinh sống. Không 
gian có thể là khoảng rộng lớn nh−: 
rừng núi (Bác sĩ Sói, TV2, T2, tr.44; 
Bảo vệ nh− thế là rất tốt, TV2, T2, 
tr.113; Voi nhà, TV2, T2, tr.56;…), 
thành thị (Ng−ời làm đồ chơi, TV2, T2, 
tr.33; Nắng ph−ơng Nam, TV3, T1, 
tr.94;…)… có thể là một khoảng nhỏ 
hẹp nh−: bến xe (Nhà bác học và bà cụ, 
TV3, T2, tr.31); tr−ờng, lớp học (Chiếc 
bút mực, TV2, T1; Bím tóc đuôi Sam, 
TV2, T1; Mẫu giấy vụn, TV2, T1…); 
nhà riêng (Câu chuyện bó đũa, TV2, T1; 
Bán chó, TV2, T1)… Chính cái không 
gian này chi phối nhân vật sử dụng vốn 
từ ngữ, cách vào đề, cách nói chuyện, 
nội dung, cách giải quyết,… 
 (1) Trong bài “Ng−ời liên lạc nhỏ” 
(TV3, T1) 
 Nghe đằng tr−ớc có tiếng hỏi: 
 - Bé con đi đâu thế? 
 Kim Đồng nói: 
 - Đón thầy mo về cúng cho mẹ 
ốm. 
 Từ “thầy mo” cho ta thấy không 
gian hội thoại ở đây là vùng miến núi 
phía Bắc. Vì dân tộc Tày có thầy mo 
chữa bệnh bằng cách cúng bái. Câu hỏi 
với thái độ trịch th−ợng, nên ng−ời hỏi 
nhận đ−ợc câu đáp trống không. Câu 
trao đọc với giọng trịch th−ợng, hống 
hách. Câu đáp lại đọc sẵng giọng, láu 
lỉnh. 
 (2) Trong bài Cậu bé thông minh 
(TV3, T1) 
 Vua cho gọi vào, hỏi: 
 - Cậu bé kia, sao dám đến đây làm 
ầm ĩ? 
 - Muôn tâu Đức Vua - cậu bé đáp - 
bố con mới đẻ em bé, bắt con đi xin sữa 
cho em. Con không xin đ−ợc, liền bị 
đuổi đi. 
 Từ “Đức Vua” cho ta biết không 
gian giao tiếp ở trong Triều đình ngày 
x−a và rất nghiêm nghị. Câu trao đọc 
giọng trách móc, lớn tiếng, oai nghiêm. 
Câu đáp giọng kính trọng, khiêm 
nh−ờng của bầy tôi. Về thời gian hội 
thoại thì có thể là thời gian hồi t−ởng 
hoặc thời gian đồng hiện. Thời gian hồi 
t−ởng là thời gian là nhân vật tái hiện 
qua hồi ức hay sự hồi t−ởng. 
 (3) Trong bài Ng−ời thầy cũ (TV3, 
T1, tr.56) 
 Chú liền nói: 
 - Th−a thầy, em là Khánh, đứa học 
trò năm nào trèo cửa sổ bị thầy phạt 
đấy ạ! 
 Thầy giáo c−ời vui vẻ: 
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 
 83
 - à, Khánh. Thầy nhớ ra rồi. 
Nh−ng… hình nh− hôm ấy thầy có phạt 
em đâu! 
 Ng−ời học trò đã gợi cho thầy giáo 
về một quãng thời gian trong quá khứ, 
nó đ−ợc thể hiện qua từ “hôm ấy”. 
Giọng câu trao kể lể, hồi t−ởng. Giọng 
câu đáp ngập ngừng, thắc mắc. 
 Thời gian đồng hiện là thời gian mà 
lời nhân vật đ−ợc hiện thực hoá trong 
đó, hay nói cách khác, thời gian đồng 
hiện là những khoảng thời gian cụ thể 
để các hành động ngôn ngữ diễn ra 
trong đó, cho phép câu nói đó có tính 
hiện thực hay không hiện thực, đúng 
hay sai. Nh− vậy bất kì câu thoại nào 
cũng đều có thời gian đồng hiện của nó. 
 T−ơng ứng với mỗi không gian thì 
có những cách đọc khác nhau: Không 
gian là nhà riêng thì giọng đọc trầm 
ấm, thân mật; không gian là lớp học, với 
bạn bè thì giọng đọc suồng sã, thân 
thiết, với thầy cô thì giọng đọc nghiêm 
nghị, kính trọng; không gian là quán 
ăn, bến xe thì giọng đọc bình dân, mộc 
mạc. 
 Nh− vậy, khi dạy câu hội thoại cho 
học sinh giáo viên cần tính đến ngữ 
cảnh của câu thoại, từ đó mới xác định 
đ−ợc ý đồ nghệ thuật của tác giả và làm 
cho học sinh hiểu đúng nghĩa của từng 
câu thoại mà nhân vật thể hiện trong 
văn bản, đồng thời giúp học sinh vận 
dụng chính xác vào các tính huống giao 
tiếp th−ờng nhật của bản thân. Đặc biệt 
chỉ khi dựa vào ngữ cảnh mới có thể 
nhận diện đ−ợc nghĩa hàm ngôn của 
câu. Và cũng chỉ có nh− vậy, giáo viên 
mới có thể h−ớng dẫn học sinh đọc đúng 
và diễn cảm đ−ợc. 
 3.3. Dạy đọc câu hội thoại trong 
văn bản gắn với vai giao tiếp cụ thể. 
 3.3.1. Dạy đọc câu hội thoại trong 
văn bản cần l−u ý đến giới tính, nghề 
nghiệp, tuổi tác, vị thế phát ngôn của 
các vai giao tiếp. 
 Nói đến hội thoại là