Khi bước vào nên kinh tế thị trường,trong bối cảnh toàn cấu hóa dần mở rộng nhiều quan hệ mua bán hàng hóa,việc mua bán hàng hóa không chỉ diễn ra trong lãnh thổ một nước với nhau mà còn thực hiện các quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa quốc tế. Nhất là trong quan hệ mua bán hàng hóa hiện nay, thì việc mua bán cung ứng dịch vụ vơi nhau thường được thể hiện dưới nhiều cách thức và nội dung khác nhau nên các hành vi mua bán trong thương mậinỳ được thể hiện bằng một hình thức nhất định đó là đó là hợp đồng mua bán hàng hóa. Khi xuất hiện một hình thức giao kết bằng hình thức hợp đồng dã giúp cho việc trao đổi hàng hóa qiữa các thương nhân hay các chủ thể với nhau được tiến hành dễ dàng và có cơ sở pháp lí hơn theo luật thương mại năm 2005 đã đưa ra những quy định nhất định để điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng hóa.Những quy định của pháp luật được thể hiện trong hợp đồng đã xác định rõ ràng các quyền, nghĩa vụ và các điều khoản cơ bản để các bên có thể giao kết với nhau.Sau đây,em xin trình bày một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa.
32 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8379 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A-MỞ BÀI
Khi bước vào nên kinh tế thị trường,trong bối cảnh toàn cấu hóa dần mở rộng nhiều quan hệ mua bán hàng hóa,việc mua bán hàng hóa không chỉ diễn ra trong lãnh thổ một nước với nhau mà còn thực hiện các quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa quốc tế. Nhất là trong quan hệ mua bán hàng hóa hiện nay, thì việc mua bán cung ứng dịch vụ vơi nhau thường được thể hiện dưới nhiều cách thức và nội dung khác nhau nên các hành vi mua bán trong thương mậinỳ được thể hiện bằng một hình thức nhất định đó là đó là hợp đồng mua bán hàng hóa. Khi xuất hiện một hình thức giao kết bằng hình thức hợp đồng dã giúp cho việc trao đổi hàng hóa qiữa các thương nhân hay các chủ thể với nhau được tiến hành dễ dàng và có cơ sở pháp lí hơn theo luật thương mại năm 2005 đã đưa ra những quy định nhất định để điều chỉnh các quan hệ mua bán hàng hóa.Những quy định của pháp luật được thể hiện trong hợp đồng đã xác định rõ ràng các quyền, nghĩa vụ và các điều khoản cơ bản để các bên có thể giao kết với nhau.Sau đây,em xin trình bày một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa.
B- NỘI DUNG
I ) Khái quát chung về pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa:
1)Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Quan hệ mua bán hàng hóa đươc xác lập và thực hiện trên cơ sở thuận mua,vừa bán, tức là trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên.Sự thống nhất ý chí ( hay còn gọi là sự thỏa thuận ) đó được gọi là hợp đồng mua bán hàng hóa.Hợp đồng mua bán hành hóa có bản chất của hợp đồng mua bán nói chung. Đó là sự thỏa thuận của các bên nhằm xác lập,thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Dù là mua bán tài sản trong dân sự hay mua bán hàng hóa trong thương mại thì bản chất của nó cũng không có gì đổi khác mà vẫn có nội dung là: người bán phải giao đối tượng được bán và quyền sở hữu đối tượng đó cho người mua và nhận tiền,còn người mua thì nhận đối tượng được mua và trả tiền.Luật thương mại năm 2005 không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa,nhưng chúng ta có thể xác định hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại dựa vào quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng mua bán tài sản.Từ đó cho thấy hợp đồng mua bán tài sản trong thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản.Một hợp đồng mua bán có thể là thỏa thuận về việc mua bán hàng hóa ở hiện tại hoặc mua bán hàng hóa sẽ có ở một thời điểm nào đó trong tương lai.Bất cứ khi nào một người mua hàng hóa bằng tiền hoặc phương thức thanh toán khác và nhận quyền sở hữu hàng hóa thì khi đó hình thành nên quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa.
2) Các văn bản pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa:
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng trong thương mại nên trươc hết hợp đồng mua bán hàng hóa chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại năm 2005.Song luật thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa, vậy việc xác định bản chất pháp lý của hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại dựa trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự về hờp đồng mua bán tài sản nên hợp đồng mua bán hàng hóa còn chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự năm 2005.Đặc biệt trong hợp đồng mua bán hàng hóa gồm có hoạt động mua bán hàng hóa trong nước và có hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài ( hợp đồng mua bná hàng hóa quốc tế ),trong đó hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được sự điều chỉnh của công ước Viên năm 1980.
II)Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa
Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
Về chủ thể,hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập giữa các chủ thể chủ yếu là thương nhân hoặc một trong hai bên phải là thương nhân.Theo quy định của luật thương mại năm 2005,thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp,cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,thường xuyên và có đăng kí kinh doanh.Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp nhằm mục đích hoạt động thương mại một cách độc lập,thường xuyên và có đăng kí kinh doanh sẽ được coi là thương nhân.Thương nhân là chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài .Ngoài chủ thể là thương nhân ,các tổ chức,cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa.Khác với bên là thương nhân,bên không phải là thương nhân có thể là mọi chủ thể có đủ năng lực hành vi để tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật.Hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích sinh lợi trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo lụât thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng luật thương mại.
2. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa.Hàng hóa là những sản phẩm lao động của con người,được tạo ra nhằm mục diách trao đổi để thỏa mãn nhu cầu của con người.Hàng hóa có thể là vật,là sức lao động của con người,là các quyền tài sản.Dưới góc độ kinh tế,hnàg hóa được phân thành tài sản hữu hình và tài sản vô hình;dưới góc độ pháp luật,hàng hóa được phân thành động sản và bất động sản.
Theo pháp luật thương mại của đa số các nước và trong nhiều điều ước quốc tế(như hiệp định thành lập khối thị trường chung Châu Âu,công ước viên năm 1980 về mua bán hàng hóa…),hàng hóa là đối tượng có thể mua bán trong thương mại bao gồm những loại tài sản có hai thuộc tính cơ bản là:có thể đưa vào lưu thông và có tính trao đổi,mua bán.Công ước viên năm 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế chỉ loại trừ đối với việc mua bán chứng khoán,giấy bảo đảm chứng từ và tiền lưu thông,điện năng,phương tiện vận tải đường thủy,đường hàng không…
Khoản 2 điều 3 luật thương mại năm 2005 đã mở rộng quy định hàng hóa đơn.Theo đó,hàng hóa bao gồm tất cả các động sản,kể cả động sản hình thành trong tương lai; và các vật gắn liền với đất đai.Tuy nhiên,khái niệm về hàng hóa vẫn còn có sự hạn chế,chúng ta dễ dàng nhận thấy hàng hóa chỉ bao gồm các loại tài sản hữu hình.Như vậy,các loại tài sản vô hình khác như quyền sử dụng đất,quyền sở hữu trí tuệ…chưa được thừa nhận là hàng hóa.Trong khi các văn bản khác như bộ luật dân sự,luật đất đai năm 2003 quy định người có quyền sử dụng đất đươc quyền chuyển nhượng,cho thuê,thế chấp…thậm chí thừa nhận trên thực tế sàn giao dịch về quyền sử dụng đất.Như vậy,chúng ta có thể hiểu hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm tất cả các động sản,kể cả động sản hình thành trong tương lai;và các vật gắn liền với đất.Tuy nhiên,khi các chủ thể tham gia quan hệ mua bán hàng hóa cần phải xem hàng hóa mà mình định mua hoặc bán là cái gì,nó có thuộc danh mục hàng cấm kinh doanh,hạn chế kinh doanh hoặc hàng kinh doanh có điều kiện hay không.
3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Về hình thức,hợp đồng mua bán hàng hóa có thể đươc thiết lập theo cách thức nào mà hai bên thể hiện được sự thỏa thuận mua bán hàng hóa giữa các bên.Hợp đồng mua bán có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói,bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết.Trong những trường hợp nhất định,pháp luật bắt buộc các bên phả thiết lập hợp đồng mua bán hàng hóa bằng hình thức văn bản.Điều 24 luật thương mại năm 2005 cũng quy định:
1. Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
2. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó.”
Các hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa đó đã tạo điều kiện thuận lợi giúp cho các bên tham gia quan hệ mua bán hàng hóa có thể lựa chọn hình thức phù hợp nhất đảm bảo quyền lợi của mình.
4. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập quyền và ngiã vụ của họ trong việc mua bán.Do đó,nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa trước hết là những điều khoản do các bên thỏa thuận.Các bên có quyền quyết định nôi dung của hợp đồng.Bởi vì quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng phát sinh chủ yếu từ những điều khoản mà các bên thỏa thuận đó.Vì vậy mà các bên thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng càng rõ ràng bao nhiêu thì càng thuận lợi trong việc thực hiện hợp đồng bấy nhiêu.
Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng, pháp luật không giới hạn các điều khoản mà các bên thỏa thuận với nhau. Pháp luật chỉ quy định nội dung chủ yếu của hợp đồng hoặc các điều khoản mang tính khuyến nghị để định hướng cho các bên trong việc thỏa thuận.
Nội dung của hợp đồng trước hết là những điều khoản mà các bên phải thỏa thuận được với nhau. Điều 402 Bộ luật dân sự cũng chỉ quy định các bên “có thể thỏa thuận”mà không đòi hỏi phải thỏa thuận những nội dung chủ yếu nào.Mặc dù nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể xác định được dựa trên những quy định mang tinh” khuyến nghị”, ”định hướng” của pháp luật, thói quen và tập quán thương mại, nhưng trong điều kiện nhận thức của nhà kinh doanh còn nhiều hạn chế, thì điều này tiềm ẩn những nguy cơ pháp lý, những tranh chấp trong hoạt động mua bán hàng hóa. Đặc biệt là trong điều kiện nước ta hiện nay.
Trên cơ sở các quy định của bộ luật dân sự và luật thương mại, xuất phát từ tính chất của quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại, có thể thấy những điều khoản quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm : đối tượng,chất lương,giá cả,phương thức thanh toán,thời hạn và địa điểm giao nhận hàng.
Mặc dù nội dung của hợp đồng do các bên thỏa thuận,nhưng trong mọi quan hệ hợp đồng nói chung và trong quan hệ mua bán hàng hóa nói riêng, các bên không chỉ chịu sự ràng buộc bởi các điều khoản mà các bên thỏa thuận mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của pháp luật.Ví dụ, các bên không thỏa thuận trong hợp đồng về điều khoản bồi thường thiệt hại cho nhau khi một bên vi phạm hợp đồng,nhưng bên vi phạm hợp đồng vẫn phải có nghĩa vụ bồi thường nếu việc vi phạm đó gây thiệt hại cho bên đối tác. Như vậy,nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa không chỉ là các điều khoản do các bên thỏa thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều khỏan do các bên không thỏa thuận nhưng theo quy định của pháp luật các bên có nghĩa vụ phải thực hiện.
5.Giao kết hợp đồng của mua bán hàng hóa
Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên nhằm xác lậo thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ nhất định. Như vậy,muốn có hợp đồng các bên phải thỏa thuận với nhau về 1 số vấn đề đủ để làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các bên. Sự tồn tại của một thỏa thuận là yếu tố cơ bản để xác định sự tồn tại hay không tồn tại của một hợp đồng.Vậy làm thế nào để đạt được sự thỏa thuận? để đạt được sự thỏa thuận, các bên phải bày rõ ý chí bằng các trao đổi ý kiến với nhau để đi đến sự thống nhất ý chí. Trong quá trình xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa, các vấn đề pháp lý cơ bản cần được làm rõ là : (i)đề nghị giao kết hợp đồng; (ii)chấp nhận đề nghị hợp đồng; (iii) thời điểm giao kết và hiệu lực của hợp đồng. Trong luật thương mại 2005 điều này không được quy định cụ thể, vì vậy các quy định của bộ luật dân sự sẽ được áp dụng đối với việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa.
5.1 Đề nghị giao kết hợp đồng
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, đề nghị giao kết hợp đồng chính là chào hàng. Chào hàng là một quy định được thừa nhận trong các thông lệ quốc tế về mua bán hàng hóa.Theo điều 390 bộ luật dân sự “đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chị sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã xác định được cụ thể.
Đề nghị giao kết hợp đồng là hành vi pháp lý đơn phương của người đề nghị. Đó là một tuyên bố chỉ ra rằng : Người đưa ra đề nghị đó sẵn sàng giao kết hợp đồng với chủ thể xác định trên cơ sở điều khoản đã đưa ra,nếu đề nghị này được chấo nhận. Điểm mấu chốt của một đề nghị hợp đồng là người đưa ra đề nghị hợp đồng phải dự định bị ràng buộc bởi các điều khoản mà họ đã đưa ra mà không có sự đàm phán nào khác.
Đề nghị hợp đồng mua bán có thể do bến bán hoặc bên mua dưa ra.Bộ luật dân sự cũng như luật thương mại năm 2005 không quy định về hình thức của đề nghị hợp đồng mua bán hàng hóa,song có thể dựa vào quy định về hình thức của hợp đòng mua bán theo điều 24 bộ luật thương mại để xác định hình thức của đề nghị hợp đồng theo đó đề nghị hợp đòng có thể dược thể hiện bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể hoặc kết hợp giữa các hình thức này.
Đề nghị hợp đồng được gửi đến cho một hay nhiều chủ thể đã xác định. Đề nghị đó phải được gửi đích danh và nội dung của đề nghị đó phải rõ ràng,có ý định đặt quan hệ mua bán hàng hóa thực sự. Đề nghị được coi là rõ ràng nếu trong đó xác định mặt hàng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, số lượng hàng,giá cả,thủ tục…Vì trong mua bán hàng hóa đề nghị giao kết hợp đồng gắn liền với trách nhiệm của người đề nghị, nên yếu tố đề nghị giao kết hợp đồng phải đuợc chuyển cho một hoặc nhiều người xác định là rất quan trọng.Nó là cơ sở để phân biệt giưua đề nghị giao kết hợp đồng với các hành vi khác gần giống với nó như quảng cáo mua bán hàng hóa. Hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng mua bán thông thường được bên đề nghị ấn định. Trường hợp bên đề nghị không ấn định thời điểm có hiệu lực của đề nghị hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực kể từ khi bên được đề nghị nhận được đề nghị đó. Khoản 2 điều 391 bộ luật dân sư quy định (i) đề nghị được chuyển đến nơi cu trú (bên được đề nghị là cá nhân)hoạc trụ sở của bên được đề nghị (nếu là pháp nhân) (ii) đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị; (iii)bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương thức khác. Trong thời hạn đề nghị hợp đồng có hiệu lực,nếu bên được đề nghị thông báo chấp nhận vô điều kiện đề nghị hợp đồng thì hợp đồng mua bán hàng hóa được hình thành và có giá trị ràng buộc các bên. Nếu các bên không thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng thì phải chịu các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp (i) bên được đề nghị nhận đựoc thoong báo về việc thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng thời điểm nhận được đề nghị; (ii) điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên dề nghị có nêu rõ về viẹc được thay đôi hoạc rút lại đè nghị khi điều kiện đó phát sinh. Nếu bên đề nghị thay đổi nội dung của đề nghị thì đề nghị đó được coi là đề nghị mới (điều 392 BLDS).
Đề nghị giao kết hợp đồng chấm dứt hiệu lực trong các trường hợp sau (i) bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận; (ii) hết thời hạn trả lời cháp nhận; (iii)thông báo về việc rút lại đề nghị có hiệu lực; (iv)thông báo về việc hủy bỏ đề nghị có hiệu lực; (v)theo thỏa thuận của bên đề nghị và bên nhận được đề nghị trơngthi hạn chờ bên được đề nghị trả lời.
5.2 Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mua bán
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị chuyênr cho bên đề nghị chuyển cho bên đề nghị việc chấp thuận toàn bộ nội dung đã nêu trong đè nghị giao kết hợp đồng. Về vấn đề này điều 18 Công ước viên 1980 cũng quy định rõ:”tuyên bố,hành động nào đó cảu người được chào hàng được thể hiện sự đồng ý với đơn chào hàng được gọi là việc chấp nhận. Thái độ im lặng hoặc không hành động không phải là việc chấp nhận nhận dơn đặt hàng”. Như vậy chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng chỉ có giá trị khi đó là hành vi hành động mang tính tích cực của đối tác trong giao dịch mua bán hàng hóa. Không thể coi là bên được đề nghị giao kết hợp đồng đã đồng ý với lời đề nghị trong khi họ không có biểu hiện nào ra bên ngoài để cho người đề nghị biết là mình đồng ý toàn bộ đề nghị giao kết hợp đồng.
Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng được xác định tùy từng trường hợp cụ thể :
- Khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận thì chỉ hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng nhận được sự chấp nhận đề nghị khi đã hết thời hạn trả lời thì chấp nhận này được coi là đề nghị mới của bên chậm trả lời. Trong trường hợp thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị biết hoặc phải biết về lý do khách quan này thì thông báo chấp nhận giao kêt hợp đồng vẫn có hiệu lực ,trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được đề nghị
- Khi các bên trực tiếp tiếp với nhau,kể cả trong trường hợp qua điện thoại hoặc qua các phương tiện khác thì bên đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận,trừ trường hợp có thỏa thuận về thời hạn trả lời.
Bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể rút lại thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.
5.3 Thời điểm giao kết hợp đồng.
Việc xác định thời điển giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa có ý nghĩ quan trọng trong việc khẳng định sự tồn tại của hợp đồng,là cơ sở để xác định phát sinh quyền và nghĩ vụ của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Về nguyên tắc chung, hợp đồng mua bán được giao kết vào thời điểm các bên đạt được sự thỏa thuận. Theo điều 404 Bộ luật dân sự tì việc xác định thời điểm giao kết hợp đồng mua bán theo các trường hợp sau:
Hợp đồng được giao kết gián tiếp bằng văn bản thì hợp đồng mua bán hàng hóa có hiêu lực khi đủ 2 điều kiện sau đây: Bên đề nghi nhận được thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện ghi trong đề nghi giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị đó phải được nhận trong thời hạn trả lời do người đề nghị đưa ra.
Hợp đồng được giao kết bằng lời nói: thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Các bên có thể sử dụng những biện pháp chứng cứ hợp pháp để chứng minh việc các bên thỏa thuận nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa bằng lời nói.bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc không chấp nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Hợp đồng cũng được xem như giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì thời điểm giao kết hợp đồng là ngày hết thời hạn trả lời.
Hợp đồng được giao kết trực tiếp bằng văn bản : thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm bên sau cùng kí vào văn bản.
Hợp đồng mua bán hàng hóa đựoc giao kết hợp pháp được hình thành từ thời điểm giao kết, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác(điều 405 BLDS).
6. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng
Luật thương mại không quy định cụ thể các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mua bán hàng hóa. Vì vậy phải dựa vào các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong quy định của bộ luật dân sự. Căn cứ vào các quy định của bộ luật dân sự (từ điều 122 đến điều 135), hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực khi đủ các điều kiện sau:
Thứ nhất, các chủ thể tham gia hợp đồng mua bná phải có năng lực chủ thể để thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng. Trong thực tiễn,các chủ thể tham gia hợp đồng mua bán chủ yếu là thương nhân. Khi tham gia hợp đồng mua bán với mục đích lợi nhuận, các thương nhân phải đáp ứng điều kiện có đăng kí kinh doanh hợp pháp đối với hàng hóa được mua bán. Còn trong trường hợp mua bán hàng hóa co điều kiên thì các thương nhân phải đáp ứng theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, người giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải là người đại diện hợp pháp của các bên.
Đại diện hợp pháp của chủ thể hợp đồng có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Khi xác định thẩm quyền giao kết hợp đồng mua bán,tại điều 145 BLDS,theo đó ngươi không có quyền đại diện giao kết, thực hiện mua bán sẽ không làm phát sinh quyền,nghĩa vụ đối với bên hợp đồng được đại diện, trừ trường hợp được người đại diện hợp pháp của bên được đại diện chấp thuận. Bên đã giao kết với người không có quyền đại diện phải thông báo cho bên kia để trả lời trong thời gian ấn định,nếu hết thời hạn đó mà không trả lời thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với bên được đại diện,nhưng người không có quyền đại diện vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên giao kết hợp đồng với mình,trừ trường hợp bên giao kết biết hoặc phải biết về việc không có quyền đại diện.Ví dụ, một công nhân của công ty A nhân danh giám đốc công ty A ký hợp đồn