Một số vấn đề trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế tại tòa án nhân dân trong thời gian vừa qua

Sau khi Bộ luật Dân sự có hiệu lực thi hành, số vụ tranh chấp thừa kế mà Tòa án nhân dâncác cấp thụ lý có phần giảm hơn trước. Theo số liệu thống kê thì: Năm 1998 toàn ngành thụ lý sơ thẩm 1055 vụ án thừa kế, đã giải quyết 633 vụ, trong đó đình chỉ, tạm đình chỉ, cho rút đơn 249 vụ, chuyển cơ quan có thẩm quyền 34 vụ, hòa giải thành 112 vụ, xét xử 268 vụ. Thụ lý phúc thẩm toàn ngành: 226 vụ, đã giải quyết 153 vụ, trong đó giữ nguyên bản án sơ thẩm 54 vụ, sửa một phần bản án sơ thẩm 46 vụ, sửa toàn bộ bản án 12 vụ, hủy án và đình chỉ 3 vụ, hủy để xét xử lại 23 vụ, hủy chuyển vụ án sang cơ quankhác 3 vụ, còn lại là hình thức giải quyết khác.

pdf25 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3878 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề trong thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế tại tòa án nhân dân trong thời gian vừa qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số vấn đề trong thực tiễn GIẢI QUYẾT CÁC TRANH CHẤPTHỪA KẾ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TRONG THỜI GIAN VỪA QUA TƯỞNG BẰNG LƯỢNG Phó Chánh Tòa TDS TANDTC I. Tình hình chung Sau khi Bộ luật Dân sự có hiệu lực thi hành, số vụ tranh chấp thừa kế mà Tòa án nhân dân các cấp thụ lý có phần giảm hơn trước. Theo số liệu thống kê thì: Năm 1998 toàn ngành thụ lý sơ thẩm 1055 vụ án thừa kế, đã giải quyết 633 vụ, trong đó đình chỉ, tạm đình chỉ, cho rút đơn 249 vụ, chuyển cơ quan có thẩm quyền 34 vụ, hòa giải thành 112 vụ, xét xử 268 vụ. Thụ lý phúc thẩm toàn ngành: 226 vụ, đã giải quyết 153 vụ, trong đó giữ nguyên bản án sơ thẩm 54 vụ, sửa một phần bản án sơ thẩm 46 vụ, sửa toàn bộ bản án 12 vụ, hủy án và đình chỉ 3 vụ, hủy để xét xử lại 23 vụ, hủy chuyển vụ án sang cơ quan khác 3 vụ, còn lại là hình thức giải quyết khác. Năm 1999 toàn ngành thụ lý sơ thẩm 2234 vụ thừa kế, đã giải quyết 1190 vụ, trong đó tạm đình chỉ, đình chỉ, cho rút đơn 390 vụ, chuyển cơ quan có thẩm quyền 78 vụ, hòa giải thành 235 vụ, xét xử 487 vụ. Năm 2000 (theo số liệu tháng 9) toàn ngành đã thụ lý sơ thẩm 1438 vụ, đã giải quyết 917 vụ, trong đó tạm đình chỉ, đình chỉ, cho rút đơn 331 vụ, chuyển cơ quan có thẩm quyền giải quyết 52 vụ, hòa giải thành 133 vụ, xét xử 401 vụ. Số vụ thụ lý phúc thẩm toàn ngành là 464 vụ (số liệu 9 tháng) đã giải quyết 332 vụ, trong đó giữ nguyên bản án sơ thẩm 115 vụ, sửa một phần bản án sơ thẩm 84 vụ, sửa toàn bộ bản án sơ thẩm 37 vụ, hủy án và đình chỉ 12 vụ, hủy bản án để xét xử lại 49 vụ, hủy bản án và chuyển cơ quan khác 4 vụ, còn lại là các hình thức giải quyết khác. Sở dĩ có tình trạng Tòa án các cấp thụ lý giảm là do tại Nghị quyết của Quốc hội số 02/1997/QH9 ngày 10/5/1997, kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa 9 đã có quyết nghị giao cho Chính phủ căn cứ vào ý kiến của đại biểu Quốc hội tiếp tục nghiên cứu, khảo sát để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết quy định về các giao dịch dân sự về nhà ở thuộc sở hữu tư nhân được xác lập trước ngày 1/7/1991 giữa cá nhân với cá nhân, giữa cá nhân với cơ quan, tổ chức, bao gồm 7 loại trong đó có: - Thừa kế nhà ở. Vì vậy các cơ quan chức năng đã tạm ngừng thụ lý, giải quyết loại việc trên. Sau khi có Nghị quyết 58/1998/NQ-UBTVQH10 về giao dịch dân sự về nhà ở được xác lập trước ngày 1/7/1991, các Tòa án bắt đầu thụ lý giải quyết một số việc về thừa kế, trừ trường hợp thừa kế mở trước 1/7/1991 mà có người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia thì vẫn tạm thời chưa thụ lý, giải quyết. Mặt khác, có trường hợp tranh chấp di sản thừa kế không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án như việc tranh chấp quyền sử dụng đất, mà đất đó chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng theo Luật Đất đai năm 1993. Vì loại việc này thuộc thẩm quyền giải quyết của Ủy ban nhân dân, còn theo quy định tại Điều 38 Luật Đất đai năm 1993 và Thông tư liên tịch số 02 ngày 28/7/1997 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng cục Địa chính hướng dẫn về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 1993 thì Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, mà đất đó đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1993 hoặc tranh chấp tài sản là các công trình kiến trúc, cây lâu năm trên đất thì tranh chấp di sản thừa kế đó mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân. Đó là những lý do làm cho số việc tranh chấp thừa kế được Tòa án các cấp thụ lý, giải quyết ít hơn so với thực tế tranh chấp trong nhân dân. 1. Về chương I: Những quy định chung Trong quá trình áp dụng phần quy định chung của pháp luật thừa kế chúng tôi nhận thấy trên thực tế chủ thể tranh chấp di sản thừa kế tuyệt đại đa số là giữa cá nhân với cá nhân, chỉ có một số rất ít tranh chấp giữa cá nhân với tổ chức, cơ quan Nhà nước. Đối tượng tranh chấp trong các vụ án thừa kế chủ yếu là nhà đất ở và các tài sản trên đất như cây lâu niên, công trình phụ trên đất. Thường giá trị số tài sản này chiếm gần như toàn bộ giá trị số di sản mà các bên yêu cầu giải quyết. Cũng có một số vụ tài sản mà hai bên tranh chấp là tiền, vàng, đồ dùng sinh hoạt như xe đạp, xe máy, xe ô tô du lịch hoặc tài sản tranh chấp vừa có nhà và các tài sản sinh hoạt khác. Việc tranh chấp tài sản là tư liệu sản xuất được giải quyết tại Tòa án mới chỉ xuất hiện vài năm gần đây, số vụ không nhiều và thường là giá trị khối di sản đó cũng không lớn lắm. Đối với các tranh chấp thừa kế liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp tại Tòa án hầu như không có. - Về áp dụng pháp luật có một thực tế là: kể từ khi Bộ luật Dân sự có hiệu lực thi hành đến nay, khi giải quyết các tranh chấp thừa kế, nếu việc thừa kế mở trước ngày Bộ luật Dân sự có hiệu lực thì có những vụ áp dụng Pháp lệnh thừa kế, nếu các giao dịch đó có nội dung và hình thức khác với qui định của Bộ luật Dân sự, nhưng không vi phạm điều cấm hoặc không trái đạo đức xã hội theo qui định của Bộ luật Dân sự; còn các trường hợp khác, cũng như trường hợp thừa kế mở sau khi Bộ luật Dân sự có hiệu lực thì Tòa án mới áp dụng các quy định của Bộ luật Dân sự để xét xử. Đây là một trong những vấn đề phức tạp khi áp dụng pháp luật. Tuy nhiên trong thời gian qua, nhìn chung chất lượng xét xử của các Toà án về các vụ án thừa kế có nhiều tiến bộ, song vẫn còn để xảy ra nhiều sai sót, xét xử thiếu thống nhất, hoặc lúng túng khi vận dụng pháp luật, được thể hiện dưới các khía cạnh sau: - Việc xác định thời điểm mở thừa kế chưa chính xác, như không xác định đúng thời điểm mở thừa kế, có vụ là do giấy khai tử không ghi chi tiết, nên khó xác định, nhưng có nhiều vụ là do người để lại di sản thừa kế đã chết lâu, giấy tờ không còn lưu giữ, chỉ dựa vào trí nhớ, nên mỗi người khai mỗi khác, việc điều tra xác minh không cụ thể, tỉ mỉ nên không làm rõ được thời điểm chết; có vụ mở thừa kế nhiều lần, nhưng Tòa án chỉ tính thời điểm mở thừa kế một lần để chia vì vậy đã bỏ sót người được hưởng thừa kế, chia thừa kế cho cả người đã chết trước người để lại di sản. - Việc xác định khối di sản cũng có nhiều trường hợp xác định không đúng. Có trường hợp bỏ sót khối di sản là do xác định sai thời điểm mở thừa kế, song có vụ xác định sai khối di sản là do người quản lý khối di sản đã tự ý bán bớt một phần di sản. Tòa án không đưa phần đã bán vào khối di sản; không xác định rõ phần quyền sở hữu về tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác; đặc biệt có vụ di sản đã có sự thay đổi về quyền sở hữu khi Nhà nước thực hiện chính sách cải tạo nhà cửa hay đã chuyển phần diện tích đất thổ cư thành đất phần trăm khi thực hiện chính sách đất đai, nên đất đó không còn thuộc quyền sử dụng hợp pháp của người để lại di sản, nhưng Tòa án vẫn đưa đất đó vào khối di sản để chia, hoặc tài sản mà người để lại thừa kế đã cho, bán trước khi mở thừa kế vẫn tính vào khối di sản, hoặc người để lại di sản chỉ cho sử dụng chứ chưa định đoạt, chuyển quyền sở hữu cho người khác nhưng Tòa án lại tách ra khỏi khối di sản. Có một thời gian ngắn việc xác định di sản là quyền sử dụng đất không thống nhất, đường lối xét xử không ổn định dẫn đến có trường hợp chỉ xác định di sản là giá trị vật liệu nhà, cây lâu niên trên đất… còn giá trị quyền sử dụng đất không coi là di sản, hoặc chỉ coi giá trị vật liệu nhà và phần đất trên có căn nhà là di sản, còn diện tích đất xung quanh nhà không coi là di sản. Vì đất đó đã được người khác đứng tên trong sổ địa chính hoặc đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên người đã đứng tên hoặc đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được công nhận là chủ sử dụng đất hợp pháp. Hiện nay, riêng đất trên có nhà, công trình kiến trúc, cây lưu niên; và đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1993 cho người để lại di sản thì đường lối giải quyết đã thống nhất và đi vào ổn định. Tuy nhiên đối với trường hợp khi mở thừa kế trên đất có nhà, cây lưu niên nhưng sau này do chiến tranh, thiên tai v.v… làm cho nhà và cây lưu niên không còn hoặc do người quản lý di sản tự ý phá đi làm lại nhà mới từ lâu hoặc đối với trường hợp trên đất không có tài sản, đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản mà người để lại di sản chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1993, nhưng người đang quản lý, sử dụng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 1993 thì có coi đất đó là di sản hay không? Hiện vẫn còn ý kiến khác nhau trong mỗi ngành cũng như giữa các ngành chức năng với nhau. Các vướng mắc liên quan đến thừa kế quyền sử dụng đất còn nhiều khía cạnh khác nữa, chúng tôi sẽ trình bày sâu ở phần thừa kế quyền sử dụng đất khi có dịp. Ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến vướng mắc lúng túng trong thực tiễn xét xử khi xác định khối di sản là quyền sử dụng đất. - Về việc trả thù lao cho người quản lý di sản đã được quy định trong Điều 643, nhưng khi vận dụng vào xét xử còn rất nhiều khác nhau về việc trích thù lao (mặc dù giữa các vụ đó có các điểm tương đồng) như có vụ thì trích rất cao, có vụ rất ít và có vụ không trích thù lao; không tách bạch rõ ràng giữa việc trả thù lao do quản lý di sản với việc thanh toán phần công sức đóng góp do làm tăng giá trị khối tài sản… - Tuy việc từ chối nhận di sản được quy định tại Điều 645 Bộ luật Dân sự, nhưng hầu hết các Tòa án không áp dụng quy định tại khoản 2 và 3 Điều 645. Phần lớp trường hợp đương sự từ chối nhận di sản chỉ cần họ khai báo rõ ràng tại Tòa án là được Tòa án chấp nhận, dù thời hạn từ chối nhận di sản cách thời điểm mở thừa kế có khi cả chục năm, chúng tôi cho đó là cách xử lý phù hợp với nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, góp phần tăng cường đoàn kết trong nhân dân. - Trường hợp người không được quyền hưởng di sản (Điều 646): trong thực tiễn thường gặp nhất là một bên xuất trình di chúc, bên kia khai đó là di chúc giả mạo, cũng có một số ít vụ bên khai di chúc đó đã được bên kia sửa chữa hoặc hủy di chúc nên di chúc không còn. Qua giám định di chúc (mà một bên coi là giả mạo), qua các chứng cứ khác, Toà án bác di chúc mà một bên xuất trình và chia di sản theo pháp luật cho tất cả các thừa kế, kể cả người đã xuất trình di chúc giả; chỉ có một số ít vụ, Tòa án đã xử không cho người giả mạo di chúc được hưởng di sản. Sở dĩ có nhiều vụ sau khi một bên xuất trình di chúc, mặc dù bị Tòa án bác di chúc, nhưng vẫn cho họ hưởng thừa kế là do hồ sơ không phản ảnh rõ di chúc này do ai làm giả hay ai sửa chữav.v… 2. Về Chương thừa kế theo di chúc Nếu nghiên cứu dưới góc độ lý luận; kỹ thuật lập pháp và thực tiễn thì có nhiều vấn đề của luật thực định trong chương này cần phải được xem xét, sửa đổi cho rõ ràng, cho phù hợp với thực tế cuộc sống. Tuy nhiên trong phạm vi bài này chúng tôi chỉ đề cập đến những sai sót, vướng mắc, thiếu thống nhất hoặc tuy có thống nhất nhưng là sự tự “thống nhất” không áp dụng quy định nào đó của luật trong thực tiễn xét xử thời gian vừa qua như sau: Có lẽ điểm nổi bật nhất là sự đánh giá khác nhau giữa các Thẩm phán, giữa Tòa án các cấp, giữa Luật sư, Kiểm sát viên trong việc xác định di chúc đó là hợp pháp hay không hợp pháp khi người để lại di sản có nhiều di chúc khác nhau; hoặc tuy có một di chúc nhưng di chúc đó không thực hiện đầy đủ các quy định mà điều luật đã ghi rõ, ví dụ như di chúc miệng (Điều 645) không có người làm chứng, hoặc tuy có đủ hai người làm chứng nhưng họ lại không ghi chép lại ngay hoặc sau đó mới nói lại cho người trong hành thừa kế biết và người trong hàng thừa kế mới ghi chép lại, cũng có vụ người làm chứng lại là người trong diện hưởng thừa kế theo pháp luật còn người kia là người được hưởng thừa kế theo di chúc viết v.v… Đối với di chúc viết: có bản di chúc không ghi đầy đủ các nội dung như quy định của Điều 656 (không ghi nơi cư trú, thậm chí có trường hợp không ghi rõ nơi có di sản) nhưng vẫn được các Tòa án chấp nhận di chúc đó là hợp pháp, nếu có căn cứ kết luận đó chính là di chúc do người để lại di sản viết ra khi minh mẫn, sáng suốt, không bị ai ép buộc. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, có rất nhiều trường hợp không phải tự tay người để lại di sản viết mà họ đánh máy, điểm chỉ hay ký rõ ràng, hoặc di chúc có người làm chứng, nhưng những người làm chứng đều là các thừa kế ký vào bản di chúc, còn số người không phải trong diện thừa kế tuy họ có chứng kiến nhưng họ không ký bản di chúc, có trường hợp chỉ có một người ký. Sau này các thừa kế công nhận đó là di chúc của người để lại di sản thì hầu hết được Tòa án công nhận di chúc đó là hợp pháp. Nếu không công nhận di chúc, rất dễ bị Tòa án cấp trên cho là xét xử sai, sửa hoặc hủy án. Cũng có trường hợp (di chúc viết hoặc di chúc miệng) nội dung di chúc chỉ giao quản lý, sử dụng di sản có điều kiện, nhưng khi điều kiện đã thay đổi, Tòa án vẫn sử dụng theo di chúc; một bên lập di chúc đã định đoạt toàn bộ tài sản chung của vợ chồng, nhưng có thẩm phán khi xét xử vẫn công nhận toàn bộ di chúc chúng tôi cho là không đúng; nhưng nếu công nhận một phần di chúc thì được ngành coi là xét xử đúng (Trong luật chưa quy định rõ trường hợp này). Điều 672 quy định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, đó là “con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng; con đã thành niên mà không có khả năng lao động”. Nhưng có vụ người để lại di sản, khi viết di chúc đã không dành lại “phần di sản bằng 2/3 suất của một thừa kế theo pháp luật” cho các đối tượng nói trên, song Tòa án vẫn công nhận toàn bộ di chúc của họ hợp pháp là không đúng; việc áp dụng Điều 676 giải thích nội dung di chúc cũng còn rất khác nhau. Những tranh chấp di sản dùng vào việc thờ cúng khi giải quyết còn gặp vướng mắc và lúng túng dẫn đến sai sót. Nguyên nhân là do điều luật chỉ thiên về việc hướng dẫn cách xử sự của công dân trong một số tình huống, mà chưa dự liệu những trường hợp khác, ví dụ như các thừa kế không thống nhất được với nhau, tranh chấp gay gắt hoặc họ không dùng di sản đó vào việc thờ cúng mà phá đi làm nhà ở… thì giải quyết thế nào? Đó là những khoảng trống pháp lý cần phải được bổ khuyết. 3. Về Chương thừa kế theo pháp luật Khi áp dụng các quy định của chương này, sai sót thường gặp là không xác định hết những người trong diện được hưởng thừa kế, nên đã bỏ sót họ, hoặc không xác định đúng những người được hưởng thừa kế thế vị, dẫn đến phải hủy bỏ bản án để điều tra xét xử lại. Việc áp dụng Điều 682 Bộ luật Dân sự về quan hệ thừa kế giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế cũng gặp nhiều khó khăn, lúng túng, vướng mắc khi xác định “quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con”, để cho họ được hưởng di sản thừa kế. Có một điều cũng đáng lưu ý là: Khi áp dụng chương 2 và 3 (thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật); có một sai sót chung và cũng hay gặp vướng mắc, lúng túng nhiều là khi giải quyết thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc hoặc theo pháp luật. Đó là các di chúc định đoạt quyền sử dụng đất nông nghiệp, đất nuôi trồng thủy sản diễn ra trước ngày giải phóng miền Nam năm 1975, trước khi có Hiến pháp năm 1992; vấn đề định giá đất theo khung giá hay theo giá thị trường; vấn đề xác định thẩm quyền giải quyết các thừa kế quyền sử dụng đất v.v…. Những vấn đề trên, ý kiến giữa các thẩm phán và các cơ quan chức năng cũng còn rất khác nhau. 4. Về Chương thanh toán và phân chia di sản Sai sót nhiều nhất khi áp dụng các điều luật của Chương này là trong khi khối di sản có thể chia đều hiện vật cho các thừa kế, thì có Tòa án lại chỉ chia cho một số người hoặc một người; nhất là việc định giá không đúng với giá trị thực của di sản, thì việc khiếu kiện sau khi xét xử càng gay gắt. Các trường hợp xử như vậy đều bị sửa án, hoặc hủy bản án để xét xử lại. Ngoài ra các sai sót do điều tra sơ sài, không tạo dựng đủ các căn cứ cho các quyết định trong bản án như không đi, vẽ sơ đồ, xác định diện tích, giá trị di sản, số lượng di sản, v.v… không đầy đủ; cũng có trường hợp sai sót do phần quyết định không rõ ràng, thiếu cụ thể hay chồng chéo lên nhau, nên không thể thi hành án được; bỏ sót tài sản không phân chia. 5. Về các nguyên nhân dẫn đến các sai sót, vướng mắc khi áp dụng pháp luật thừa kế 1. Do tính ổn định không cao của pháp luật dân sự, đặc biệt là pháp luật đất đai, dẫn đến đường lối giải quyết các tranh chấp thừa kế liên quan đến nhà, đất không ổn định. Mỗi lần pháp luật có sự sửa đổi lớn gây ra những lúng túng và sự khác biệt trong quan điểm giải quyết giữa các ngành, giữa các thẩm phán. Hậu quả của sự lúng túng, không thống nhất là không ít bản án bị cải, sửa, hủy. Mặt khác pháp luật, nhất là pháp luật tố tụng chưa đầy đủ, cụ thể cũng là nguyên nhân dẫn đến sai sót khi xét xử. 2. Bộ luật Dân sự ra đời là một thuận lợi rất lớn cho công tác xét xử. Song có những quy định của pháp luật thừa kế, pháp luật đất đai và các quy định pháp luật khác liên quan chưa thật nhất quán, có điểm chưa hợp lý hoặc chưa chặt chẽ, rõ ràng, nên khó áp dụng; có vấn đề chưa được Bộ luật quy định. Do Bộ luật có hiệu lực thi hành đã hơn 4 năm nhưng chưa có một văn bản hướng dẫn đầy đủ, có hệ thống về thừa kế, dẫn đến việc hiểu, giải thích rất khác nhau giữa các ngành, các cơ quan tiến hành tố tụng, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không thống nhất v.v… 3. Có một bộ phận Thẩm phán do trình độ còn hạn chế, nên khi kiểm tra xét xử còn phạm những sai lầm rất sơ đẳng; có thẩm phán cấp trên do trình độ không hơn thẩm phán cấp dưới, nên việc cải, sửa, hủy án, y án không đúng. Bên cạnh đó có Thẩm phán thiếu tinh thần trách nhiệm, thiếu đi điều tra, nên hồ sơ làm rất sơ sài nghiên cứu hồ sơ không kỹ, không chịu khó nghiên cứu văn bản, không cập nhật kịp thời các văn bản mới. Lương Thẩm phán không cao, không đủ đảm bảo cho cuộc sống, làm cho các Thẩm phán chưa thật yên tâm, toàn ý với nghề; có Thẩm phán bị chi phối vì lý do này khác, nên chưa thật vô tư, khách quan trong xét xử cũng làm ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết các vụ án thừa kế. II. Từ thực tiễn xét xử chúng tôi xin có một số kiến nghị tổng quát như sau 1. Chúng tôi cảm thấy Bộ luật Dân sự quy định có phần thiên về hướng dẫn cách xử sự cho công dân, nhưng hầu hết các quy định trong phần thừa kế lại có tính chất dứt khoát; đã thế lại có những quy định chưa sát với tâm lý, tập quán của người dân; trong khi người dân chưa hiểu biết về các quy định này, không hành xử đầy đủ như luật yêu cầu về hình thức thể hiện văn bản. Dù nội dung là đúng ý chí của họ; dẫn đến khó khăn khi áp dụng pháp luật, thậm chí có trường hợp áp dụng theo thực tế cuộc sống, chứ không theo quy định của luật, ví dụ vấn đề từ chối nhận di sản (Điều 645). Vì vậy khi quy định phải tính đến yếu tố tâm lý và trình độ dân trí chung của người dân. 2. Cần phải quy định trong Bộ luật Dân sự theo hướng toàn bộ các tranh chấp thừa kế đều thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân giải quyết, thì mới tạo ra sự thống nhất trong áp dụng pháp luật và đường lối xử lý (hiện nay việc tranh chấp thừa kế, nếu thuộc thẩm quyền Tòa án giải quyết thì di sản đó sẽ được chia cho các thừa kế, nếu thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân thì nhiều trường hợp người đang quản lý di sản được hưởng cả, chứ không áp dụng các quy định về thừa kế trong Bộ luật dân sự để giải quyết). 3. Cần quy định rõ một số loại quyền cũng thuộc di sản thừa kế (Ngoài quyền sử dụng đất đã được quy định trong Bộ luật Dân sự thì còn có các quyền khác như: quyền sử dụng nhà cho th
Luận văn liên quan