Sự nghiệp đổi mới nền kinh tế do Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (12 - 1986) khởi xướng, trong đó có chủ trương xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thích ứng với cơ chế kinh tế mới trong lĩnh vực tiền tệ, lưu thông tiền tệ, tín dụng và Ngân hàng, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ rõ "Bên cạnh nhiệm vụ quản lý lưu thông tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, cần xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế."
Thực hiện chủ trương trên, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 về tổ chức bộ máy ngân hàng Nhà nước Việt Nam phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các doanh nghiệp ngân hàng. Vì vậy từ 1/7/1988 NHCTVN ra đời và đi vào hoạt động đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, của toàn ngành ngân hàng, hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành, NHCTVN đã khẳng định được vai trò, vị trí là một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam, không ngừng đổi mới bộ máy tổ chức và mạng lưới kinh doanh, góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, thực thi chính sách tiền tệ, kiềm chế đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Tính đến 31/12/1998 NHCTVN có đội ngũ cán bộ nhân viên trên 11000 người có mạng lưới bao gồm: Trụ sở chính và hai Sở giao dịch, 65 chi nhánh phụ thuộc, 25 chi nhánh trực thuộc, 433 phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, 86 cửa hàng vàng bạc đặt tại trung tâm kinh tế và các khu vực công thương nghiệp phát triển trong cả nước. NHCTVN có quan hệ đại lý với 435 ngân hàng và tổ chức tiền tệ của 40 nước và khu vực trên thế giới. Ngoài ra NHCT còn có các đơn vị thành viên. Trung tâm đào tạo nghiệp vụ, trung tâm công nghệ thông tin, công ty cho thuê tài chính, tham gia hai liên doanh với nước ngoài là IWDOVINA BANK và công ty cho thuê tài chính quốc tế (VILC)
30 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số vấn đề về hoạt động dịch vụ ngân hàng tại sở giao dịch ngân hàng công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một số vấn đề về hoạt động dịch vụ ngân hàng tại sở giao dịch nhct Việt Nam
I-/ Vài nét về hoạt động kinh doanh của Sở giao dịch NHCTVN
1-/ Khái quát về Ngân hàng Công thương Việt Nam
Sự nghiệp đổi mới nền kinh tế do Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (12 - 1986) khởi xướng, trong đó có chủ trương xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thích ứng với cơ chế kinh tế mới trong lĩnh vực tiền tệ, lưu thông tiền tệ, tín dụng và Ngân hàng, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ rõ "Bên cạnh nhiệm vụ quản lý lưu thông tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, cần xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế..."
Thực hiện chủ trương trên, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 về tổ chức bộ máy ngân hàng Nhà nước Việt Nam phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các doanh nghiệp ngân hàng. Vì vậy từ 1/7/1988 NHCTVN ra đời và đi vào hoạt động đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, của toàn ngành ngân hàng, hơn 10 năm xây dựng và trưởng thành, NHCTVN đã khẳng định được vai trò, vị trí là một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam, không ngừng đổi mới bộ máy tổ chức và mạng lưới kinh doanh, góp phần đắc lực thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, thực thi chính sách tiền tệ, kiềm chế đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Tính đến 31/12/1998 NHCTVN có đội ngũ cán bộ nhân viên trên 11000 người có mạng lưới bao gồm: Trụ sở chính và hai Sở giao dịch, 65 chi nhánh phụ thuộc, 25 chi nhánh trực thuộc, 433 phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, 86 cửa hàng vàng bạc đặt tại trung tâm kinh tế và các khu vực công thương nghiệp phát triển trong cả nước. NHCTVN có quan hệ đại lý với 435 ngân hàng và tổ chức tiền tệ của 40 nước và khu vực trên thế giới. Ngoài ra NHCT còn có các đơn vị thành viên. Trung tâm đào tạo nghiệp vụ, trung tâm công nghệ thông tin, công ty cho thuê tài chính, tham gia hai liên doanh với nước ngoài là IWDOVINA BANK và công ty cho thuê tài chính quốc tế (VILC)
2-/ Những hoạt động cở bản của Sở giao dịch
2.1 Giới thiệu chung.
Sở giao dịch NHCTVN là một chi nhánh ngân hàng thương mại lớn. Trong những năm từ 1988 đến tháng 7 năm 1993 Sở giao dịch có tên là "Trung tâm giao dịch NHCT thành phố, từ 1/7/93 trung tâm giao dịch NHCT thành phố giải thể và đổi thành Sở giao dịch NHCTVN.
Sở giao dịch một mặt có chức năng như một chi nhánh của NHCT thực hiện đầy đủ các mặt hoạt động như một ngân hàng thương mại, mặt khác có vai trò quan trọng hơn các chi nhánh khác. Đây là nơi đầu tiên nhận các quyết định chỉ thị, thực hiện thí điểm các chủ trương chính sách của NHCTVN, đồng thời được NHCTVN uỷ quyền làm đầu mối cho các chi nhánh phía Bắc trong việc thu chi ngoại tệ mặt, séc du lịch, visacard, mastercard.
Sở giao dịch là đơn vị hạch toán phụ thuộc vào NHCTVN, có quyền tự chủ trong kinh doanh, có con dấu riêng và mở tài khoản tại ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng khác. Trong những năm qua Sở giao dịch đã thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình với tinh thần trách nhiệm cao, năng động, sáng tạo và theo đúng luật ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, Nghị định của Chính phủ, các chủ trương chính sách của ngành ngân hàng và của NHCTVN.
Sở giao dịch thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao chất lượng kinh doanh và dịch vụ ngân hàng, đổi mới phong cách làm việc nâng cao chất lượng phục vụ, xây dựng chính sách khách hàng với phương châm "vì sự thành đạt của mọi người, mọi nhà và mọi doanh nghiệp ".
Mô hình tổ chức của Sở giao dịch như sau: Với hơn 200 cán bộ trong đó 40,8% có trình độ Đại học và trên Đại học, còn lại đều qua đào tạo hệ Cao đẳng, trung học chuyên ngành ngân hàng. Sở giao dịch có 9 phòng chức năng dưới sự chỉ đạo điều hành của Ban Giám đốc gồm: Một phó giám đốc và hai phó giám đốc.
- Phòng kinh doanh: Trực tiếp cho khách hàng vay vốn, giám sát và quản lý việc sử dụng vốn vay.
- Phòng nguồn vốn: Làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cân đối tổng hợp về nguồn vốn và sử dụng vốn. Huy động vốn tiết kiệm cũng như các nguồn vốn nhàn rỗi khác. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo tổng hợp, phân tích việc thực hiện kế hoạch tài chính của Sở giao dịch.
- Phòng kế toán: Có chức năng hạch toán tất cả các nghiệp vụ thanh toán bằng VND, lên cân đối tổng hợp của Sở giao dịch.
- Phòng hành chính quản trị: Làm các công việc về hành chính, quản trị như các doanh nghiệp khác.
- Phòng tổ chức cán bộ: Quản lý cán bộ và tiền lương, tham mưu cho ban lãnh đạo về xét tuyển, đề bạt cán bộ.
- Phòng ngân quỹ: Thực hiện thu chi tiền mặt đối với khách hàng và bản thân ngân hàng.
- Phòng kiểm soát: Thực hiện kiểm soát nội bộ các nghiệp vụ của Sở giao dịch.
- Phòng điện toán: Quản lý dữ liệu, thông tin quản lý, in kết quả kinh doanh, các mẫu biểu báo cáo của Sở giao dịch.
- Phòng kinh doanh đối ngoại: Thực hiện các nghiệp vụ về thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ và hạch toán kế toán các nghiệp vụ bằng ngoại tệ. Làm đầu mối thanh toán séc du lịch visacard, và tiền mặt ngoại tệ cho các chi nhánh NHCT ở phía Bắc, thực hiện giải ngân một số dự án ODA mà ngân hàng Công thương được chỉ định thực hiện.
Tất cả các phòng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của một ngân hàng thương mại. Cơ cấu tổ chức được đổi mới theo hướng gọn nhẹ, hiệu quả, tránh cồng kềnh và chồng chéo. Và Sở giao dịch đang tiến tới xây dựng một mô hình ngân hàng thương mại đa năng, hiện đại, hướng tới sản phẩm mới, thị trường mới, tăng cường sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Từ khi thành lập đến nay Sở giao dịch luôn luôn là một trong những chi nhánh đứng đầu trong hệ thống các chi nhánh của NHCTVN. Do Sở giao dịch vừa là chi nhánh trực tiếp kinh doanh vừa làm đầu mối một số công việc cho các chi nhánh ngân hàng Công thương phía Bắc. Với các ưu thế về địa lý, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như bề dày hoạt động mà Sở Giao dịch luôn nổi trội hơn các chi nhánh khác và chiếm vị trí chủ lực trong hệ thống NHCTVN. Trong các năm gần đây Sở giao dịch luôn đứng đầu về nguồn vốn huy động cũng như lợi nhuận hạch toán trong hệ thống NHCTVN. Tại Sở có các hoạt động cơ bản sau đây:
a, Huy động vốn:
Hướng theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế và nhăm nâng vốn tự có lên 1500 tỷ vào cuối năm 2000 đồng thời đảm bảo tốc độ phát triển nguồn vốn huy động bình quân 25% do NHCT đề ra. Sở giao dịch đã chủ động tập trung khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế bằng việc trực tiếp đưa ra các hình thức huy động vốn năng động có tính cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng, khơi tăng nguồn vốn huy động đặc biệt là nguồn vốn có thời hạn phục vụ cho đầu tư phát triển, tại Sở giao dịch có 6 quỹ tiết kiệm nằm trong quận Hoàn Kiếm đây là khu vực trung tâm thương mại của Hà Nội, tập trung đông dân cư cũng như nhiều tổ chức kinh tế.
Nguồn vốn huy động bình quân tăng hàng năm từ 25 à 27%. Mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc tài chính tiền tệ khu vực Châu á nguồn vốn huy động năm 1998 của Sở giao dịch vẫn tiếp tục tăng 40,4% so với năm 1997, nguồn vốn huy động bình quân của Sở giao dịch hiện nay xấp xỉ 5572 tỷ. Trong tổng nguồn vốn huy động thì tiền gửi doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn 75% năm 1996, 72% năm 1997 và 60% năm 1998.
Tuy nhiên cơ cấu nguồn vốn có sự biến động qua các năm thể hiện tiền gửi tiết kiệm với lãi suất cao hơn lại có xu hướng tăng dần trong tỷ trọng. Đặc biệt nguồn vốn ngoại tệ có xu hướng tăng nhanh trong tổng nguồn vốn huy động năm 1996 chiếm 6%, năm 1997 tăng lên 16%, năm 1998 chiếm 29%. Nguồn vốn ngoại tệ tăng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các nghiệp vụ ngân hàng đối ngoại đặc biệt là công tác cho vay và kinh doanh ngoại tệ.
Nguồn vốn dồi dào giúp Sở chủ động trong kinh doanh và ít bị lệ thuộc vào NHCTVN. Tuy nhiên tiền gửi doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhưng trong đó đó tiền gửi không kỳ hạn cũng tăng tương ứng qua các năm (chiếm từ 65 - 70% tổng nguồn). Đây cũng là điểm bất lợi của Sở vì doanh nghiệp có thể rút vốn bất kỳ lúc nào gây bị động về vốn.
Các nguồn vốn trung dài hạn hiện nay ở Sở giao dịch chủ yếu là nguồn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư hoặc dưới dạng phát hành kỳ phiếu.
Qua số liệu trên ta cũng thấy được Sở giao dịch luôn coi trọng công tác cải tiến hình thức, liên tục đa dạng hoá cũng như tạo ra các tiện ích cho người gửi tiền với lãi suất luôn linh hoạt và phù hợp với thị trường. Đồng thời áp dụng các hình thức ưu đãi lãi suất cho khách hàng thường xuyên có số dư tiền gửi cao.
Nhờ nâng cao chất lượng phục vụ và biết khai thác yếu tố tâm lý của người gửi tiền mà nguồn vốn huy động của Sở giao dịch ngày càng tăng trưởng nhanh và ổn định cả về đồng nội tệ và ngoại tệ.
Tóm lại, nguồn vốn huy động lớn, dồi dào, tăng trưởng ổn định là điều kiện cơ bản để Sở giao dịch có thể chủ động trong kinh doanh và tạo điều kiện để phát triển các nghiệp vụ và các dịch vụ của ngân hàng. Đồng thời giúp NHCTVN trong việc điều hoà vốn toàn hệ thống ngân hàng Công thương.
Biểu 1 - Tình hình huy động vốn của Sở giao dịch
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 1996
Năm 1997
Năm 1998
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
- Tổng nguồn vốn huy động
3.176
100
4.042
100
5.572
100
I. Phân theo vốn huy động
+ Tiền gửi doanh nghiệp
2.390
75
2.909
72
3.362
60
+ Tiền gửi dân cư
786
25
1.133
28
2.210
40
II. Phân theo thời hạn
+ Tiền gửi không kỳ hạn
2.237
70
2.835
70
3.481
62
+ Tiền gửi có kỳ hạn
939
30
1.207
30
2.091
38
III. Phân theo đơn vị tiền tệ
- Tiền gửi bằng VNĐ
2.987
94
3.392
84
3.967
71
- Tiền gửi bằng ngoại tệ
189
6
650
16
1.605
29
Nguồn báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN năm 1996, 1997, 1998.
b. Sử dụng vốn
Trong 10 năm qua, hoạt động đầu tư và cho vay không ngừng được mở rộng góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển và đổi mới kinh tế của đất nước. Tính đến 31/12/1998 dư nợ cho vay đạt 875 tỷ tăng 19,5% so với cùng kỳ năm 1997. Cơ cấu tín dụng được đổi mới và chuyển dịch theo hướng mở rộng cho vay tất cả các thành phần kinh tế và dân cư, mọi ngành nghề kinh doanh được Nhà nước cho phép đồng thời chú ý tới việc tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn và thực hiện tăng trưởng tín dụng đối với các thành viên là các tổng công ty 90, 91. Mở rộng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, tín dụng bảo lãnh, các chương trình tín dụng bằng các nguồn vốn của các tổ chức quốc tế đầu tư trên thị trường liên ngân hàng, đầu tư trái phiếu...
Trong khi nguồn vốn tăng nhanh trung bình từ 25 đến 27%/năm thì dư nợ hàng tăng chỉ tăng trung bình khoảng 8% - 20% không tương xứng với tốc độ tăng trưởng nguồn vốn. Mặt khác chất lượng tín dụng nói chung giảm sút thể hiện tỷ trọng nợ quá hạn năm 1996 chiếm 7% trong tổng dư nợ, sang năm 1997 giảm xuống còn 6% nhưng đến năm 1998 là tăng lên đến 12% và hiện nay Sở đã cố gắng để giảm thấp nợ quá hạn bằng nhiều biện pháp nhưng vẫn ở mức cao là 8% và nợ khó đòi vẫn có chiều hướng gia tăng.
Biểu 2 - Tình hình sử dụng vốn
Đơn vị: Tỷ đồng.
Chỉ tiêu
31.12.1996
31.12.1997
31.12.1998
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
% so 96
Số tiền
Tỷ trọng
% so 97
- Tổng dư nợ
678
100
732
100
107,9
875
100
119,5
I. Phân theo thời hạn
1. Ngắn hạn
540
79,5
585
78
108,3
380
43,4
64,9
2. Dài hạn
138
20,4
147
22
106,5
495
56,6
336,7
II. Theo thành phần KT
1. Quốc doanh
586
86,7
539
73,6
92
793
90,6
147
2. Ngoài quốc doanh
92
13,6
193
26,4
209,7
82
9,4
42,4
III. Theo đơn vị T.tệ
1. VNĐ
399
58,8
467
63,8
117
632
72,2
135
2. Ngoại tệ quy đổi
279
41,2
265
36,2
95
243
27,8
91,6
IV. Phân theo ngành
1. Công nghiệp
201,8
29,7
195
26,6
96,6
106
12
54,3
2. Xây dựng
7,6
1,1
10
1,3
131,5
7
10,8
0,7
3. G.thông, bưu điện
130,8
19,3
131,7
18
100,6
483
55,2
366,7
4. Thương nghiệp
279,9
41,3
264
36
94,3
262
29,9
99,2
5. Khác
58
8,6
133,9
18,1
230,8
10,4
2,1
7,7
V. Phân theo chất lượng
- Trung hạn
630
93
706
96
112
774
88
109,6
- Quá hạn
47,9
7
26,5
6
55,3
95
12
358,4
+ Quá hạn dưới 6 tháng
27
20
73
+ Quá hạn từ 6-12 tháng
11
3,5
2,7
+ Quá hạn trên 12 tháng
9,7
3
19,3
Nguồn báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN 1996, 1997, 1998.
c. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ : (Xem biểu 3 trang 32) .
Nhờ kinh doanh ngoại tệ mà Sở giao dịch đa dạng hoá các nghiệp vụ của Ngân hàng giúp cho thuận lợi, nhanh chóng thực hiện các nhu cầu của khách hàng không chỉ bằng nội tệ mà cả ngoại tệ. Khách hàng có thể chỉ cần quan hệ với một ngân hàng là đã có thể thoả mãn được nhu cầu ngày càng đa dạng của mình. Điều đó đã có thể thoả mãn mọi nhu cầu ngày càng đa dạng của mình. Điều đó giúp Sở giao dịch giữ được các khách hàng có quan hệ truyền thống với mình và còn mở rộng thêm quan hệ với các khách hàng tiềm năng. Sở giao dịch đã từng bước đa dạng hoá các hình thức mua bán ngoại tệ như kỳ hạn hoán đổi. Ngoài ra giao dịch các loại ngoại tệ này ngày càng gia tăng từ 4,6% năm 1996 lên 9,7% năm 1997 và 7,2% năm 1998. Trong đó hầu hết các loại ngoại tệ mạnh được thực hiện mua bán như DEM, JPY, FRF, CHF, SGD, EUR, AUD, GBP, SEK... Đây là những loại ngoại tệ tự do chuyển đổi, có xu hướng tỷ giá ổn định, điều này cho thấy Sở giao dịch rất coi trọng việc phòng ngừa rủi ro về tỷ giá và cố gắng doanh thu lợi nhuận cao nhất. Mục đích mua bán các loại ngoại tệ khác cũng nhằm giảm bớt sức ép về USD của khách hàng, đồng thời giúp khách hàng thuận lợi trong thanh toán quốc tế bằng các loại ngoại tệ khác và đem lại lợi nhuận bổ sung cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hiện nay Sở giao dịch tích cực phát triển các dịch vụ này để tránh tình trạng khách hàng phải đổi tiền thông qua USD, chênh lệch giá mua, giá bán của các loại ngoại tệ này cao do vậy thu lợi nhuận lớn.
Trong quan hệ với các ngân hàng đại lý, ngoài những quan hệ như thanh toán chuyển tiền, tài trợ, giúp đỡ đào tạo, cho vay vốn... còn một quan hệ không thể thiếu là các quan hệ giao dịch về mua bán ngoại tệ. Tuy việc mua bán ngoại tệ với ngân hàng nước ngoài không thực hiện tại Sở giao dịch mà thực hiện tại phòng Dealing room của Hội sở chính nhưng có rất nhiều giao dịch được phát sinh tại các chi nhánh trong đó Sở giao dịch là một chi nhánh lớn đã yêu cầu Hội sở chính thực hiện hộ. Điều đó làm tăng thêm mối quan hệ với các ngân hàng đại lý, tăng thêm thu nhập cho NHCTVN và bản thân Sở giao dịch.
Doanh số mua bán ngoại tệ của Sở giao dịch luôn chiếm khoảng 10% doanh số mua bán của toàn hệ thống NHCT. Để hoạt động kinh doanh ngoại tệ ngày càng có hiệu quả, sớm làm quen và hoà nhập với các ngân hàng khu vực và trên thế giới về kinh doanh ngoại tệ, từ năm 1995 NHCT đã nối mạng với hãng Reuters, telerate để thường xuyên theo dõi sự biến động của tỷ giá các loại ngoại tệ trên thị trường quốc tế. Đã sử dụng Dealing Services để giao dịch trực tiếp với các ngân hàng nước ngoài. Đối với hoạt động tín dụng ngoại tệ của Sở giao dịch, kinh doanh ngoại tệ góp phần thực hiện việc vay, trả của các doanh nghiệp vay vốn của sở được thực hiện nhanh chóng thuận lợi.
Nếu một ngân hàng chỉ có huy động, cho vay, thanh toán và làm các dịch vụ có liên quan đến ngoại tệ mà không có bộ phận kinh doanh ngoại tệ thì mọi hoạt động này khó có thể tiến hành được. Đặc biệt trong những thời kỳ khó khăn do tỷ giá thường xuyên biến đổi, để đảm bảo an toàn vốn cho vay nhằm thu nợ gốc và lãi vay ngoại tệ. Sở giao dịch đã chịu lỗ trong kinh doanh ngoại tệ, bán ứng ngoại tệ cho các doanh nghiệp để hoàn trả vốn vay cho Ngân hàng. Đây là biện pháp tình thế cấp bách nhưng rất cần thiết.
Đứng trên tổng thể hoạt động của một ngân hàng thì việc lỗ ở nghiệp vụ này để lãi ở nghiệp vụ khách và kết quả cuối cùng là thu lợi nhuận cao thì điều đó thể hiện tính linh hoạt trong kinh doanh của Sở giao dịch. Qua đó Sở giao dịch vừa giữ được khách hàng truyền thống vừa đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động tín dụng. Qua đây cũng bộc lộ sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hoạt động kinh doanh ngoại tệ và hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngoại tệ phát triển thì kinh doanh ngoại tệ phát triển, kinh doanh ngoại tệ phát triển giúp hoạt động tín dụng ngày càng có hiệu quả hơn. Đây cũng chính là lợi thế của Sở giao dịch trong cạnh tranh với các ngân hàng khác. Tuy lỗ trong kinh doanh ngoại tệ nhưng Sở giao dịch vẫn có lợi nhuận lớn nhất trong hệ thống các chi nhánh NHCT.
Biểu 3 - Tình hình kinh doanh ngoại tệ của Sở giao dịch I - NHCTVN
Đơn vị: 1000 USD.
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
% so 96
Số tiền
Tỷ trọng
% so 97
I. Doanh số mua
149,059
100
110,171
100
73,9
87,860
100
79,7
1. Phân theo ngoại tệ
- USD
142,152
95,4
99,461
90,3
81,534
92.8
- Các loại Ntệ khác quy đổi USD
6,907
4,6
10,711
9,7
6,326
7,2
2. Phân theo đối tượng mua
- Từ các NH khác
95,016
63,7
72,017
63,4
16,126
18,3
- Từ NHCTVN
28,600
19,2
14,896
13,5
30,291
34,5
- Từ các dnghiệp có tkntệ
25,443
131
23,259
21,1
41,443
47,2
- Tại SGD I
II. Doanh số bán
149,059
100
111,279
100
74,6
88,516
100
79,5
1. Phân theo ngoại tệ
- USD
141,010
94,6
100,481
90,3
82,192
92,8
- Các loại Ntệ khác quy đổi USD
8,049
5,4
10,798
9,7
6,324
7,2
2. Phân theo đối tượng bán
- Bán cho khách hàng
132,162
88,7
95,189
85,5
- Bán cho các ngân hàng khác
14,897
10
16,090
14,5
- Bán cho NHCTVN
2,000
1,3
III. Lỗ lãi KDNT
(Đơn vị: triệu VNĐ)
2,453
449
18,3
- 4,063
Nguồn Báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN năm 1996, 1997, 1998.
2.2 Kết quả kinh doanh (Xem biểu 4 trang 33)
Trong những năm qua Sở giao dịch luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch của NHCT giao, nộp đủ cho ngân sách Nhà nước, và có lợi nhuận đứng đầu trong các chi nhánh của hệ thống ngân hàng Công thương. Lợi nhuận 1997 bằng 154% năm 1996 và năm 1998 bằng 122,18% so với 1997. Và tổng thu nhập của năm 1998 tăng do những nguyên nhân sau:
- Thu lãi cho vay tăng do dư nợ tăng trong khi đó lãi suất bình quân năm 1998 vẫn bằng năm trước là 0,87%.
- Thu phí dịch vụ tăng.
- Đặc biệt thu lãi điều hoà tăng 27% so với năm 1997.
Qua phân tích khái quát hoạt động kinh doanh ta thấy Sở giao dịch đã chú trọng khơi tăng nguồn vốn. Dư nợ có tăng nhưng chậm và chưa tương xứng với tốc độ tăng của nguồn vốn và không ổn định. Đồng thời dư nợ hầu hết tập trung vào số tổng công ty lớn như Tổng công ty Bưu chính viễn thông, Tổng công ty điện lực, xí nghiệp Liên hiệp đường sắt: Biểu hiện lượng khách hàng mỏng. Nguồn vốn ngoại tệ tăng nhưng dư nợ ngoại tệ lại có xu hướng giảm thu dịch vụ có tăng nhưng rất chậm và chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ xấp xỉ 2% - 3% trong tổng thu nhập không tương xứng với một ngân hàng lớn như Sở giao dịch. Mặc dù thu nhập tăng nhưng chủ yếu là thu lãi điều hoà (Năm 1998: chiếm 69% trong tổng thu nhập). Vấn đề quan trọng hiện nay là tăng dư nợ lành mạnh để thu lãi, đồng thời phát triển các dịch vụ mới để tăng thu dịch vụ.
Biểu 4 - Báo cáo thu nhập, chi phí của Sở giao dịch NHCTVN
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
Số tiền
% so với 96
Số tiền
% so với 97
Tổng thu nhập
283.833
305.434
107,6
371.927
121,7
- Thu lãi
102.928
76.614
74,4
85.426
111,5
- Tiền gửi TCTD
29.447
13.996
47,5
18.730
133,8
- Dịch vụ
8.331
7.247
87
7.667
105,7
- Thu khác
731
1.976
270
427
21,6
- Lãi điều hoà
142.396
202.603
142.28
257.241
127%
Tổng chi phí
240.348
238.300
99
289.942
121,6
- Trả lãi
222.931
224.300
100,6
269.768
120,2
- Chi phí nhân viên
5.903
7.672
130
7.443
97
- Chi phí khác
11.514
9.215
80
12.732
138
Lợi nhuận
43.485
67.099
154.3
81.985
122.18
Nguồn báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN năm 1996, 1997, 1998.
II-/ Các dịch vụ ngân hàng tại Sở giao dịch.
1-/ Dịch vụ nhận tiền gửi:
Nhận thức rõ sự gia tăng của nguồn vốn là yếu tố quyết định sự tồn tại của ngân hàng. Vì vậy Sở giao dịch là luôn coi trọng công tác huy động vốn và coi nguồn vốn là yếu tố đầu tiên của quá trình kinh doanh khi nguồn vốn huy động được có cơ cấu hợp lý, chi phí huy động vốn thấp sẽ góp phần nâng ca