Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có những chuyển biến tích cực, từ nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hoá, từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động trong cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước, mỗi Doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể kinh tế của quá trình tái sản xuất xã hội. Doanh nghiệp phải vận động trên thị trường, tìm mua các yếu tố cần thiết cho sản xuất và tìm khách hàng tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra. Phương châm chi phối các hoạt động của các Doanh nghiệp là “ Sản xuất và đưa vào thị trường cái mà thị trường cần chứ không thể bắt thị trường chấp nhận những sản phẩm mà Doanh nghiệp có sẵn”. Điều đó chứng tỏ rằng, thị trường là chiếc “ cầu nối” giữa sản xuất và tiêu dùng, thị trường là khâu quan trọng nhất trong quá trình tái sản xuất hàng hoá của Doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các Doanh nghiệp không những có nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm mà còn có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ số sản phẩm đó. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. Mỗi Doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và phát triển bền vững nếu họ luôn bám sát, thích ứng với mọi biến động của thị trường và có trách nhiệm đến cùng với sản phẩm của mình, kể cả khi sản phẩm đó đang được người tiêu dùng sử dụng. Vì thế, để tiêu thụ được sản phẩm, trang trải được các khoản chi phí, đảm bảo kinh doanh có lãi thật sự không phải là vấn đề đơn giản. Các doanh nghiệp phải đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu thị trường, đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm, để từ đó đề ra các phương hướng và biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm – một trong những yêu cầu hàng đầu của quản lý Doanh nghiệp.
Là sinh viên khoa Khoa học quản lý – em mong muốn được hiểu những vấn đề liên quan tới thị trường một cách hệ thống và sâu sắc. Và đó là lý do em chọn đề tài:
“Một số ý kiến góp phần đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cơ khí xây dựng Đại Mỗ”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về thị trường và tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cơ khí Xây dựng.
Chương II: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cơ khí Xây dựng Đại Mỗ.
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cơ khí Xây dựng Đại Mỗ.
91 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1851 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một số ý kiến góp phần đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cơ khí xây dựng Đại Mỗ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có những chuyển biến tích cực, từ nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hoá, từ cơ chế quản lý tập trung bao cấp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động trong cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước, mỗi Doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể kinh tế của quá trình tái sản xuất xã hội. Doanh nghiệp phải vận động trên thị trường, tìm mua các yếu tố cần thiết cho sản xuất và tìm khách hàng tiêu thụ các sản phẩm sản xuất ra. Phương châm chi phối các hoạt động của các Doanh nghiệp là “ Sản xuất và đưa vào thị trường cái mà thị trường cần chứ không thể bắt thị trường chấp nhận những sản phẩm mà Doanh nghiệp có sẵn”. Điều đó chứng tỏ rằng, thị trường là chiếc “ cầu nối” giữa sản xuất và tiêu dùng, thị trường là khâu quan trọng nhất trong quá trình tái sản xuất hàng hoá của Doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các Doanh nghiệp không những có nhiệm vụ sản xuất ra sản phẩm mà còn có nhiệm vụ tổ chức tiêu thụ số sản phẩm đó. Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. Mỗi Doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại và phát triển bền vững nếu họ luôn bám sát, thích ứng với mọi biến động của thị trường và có trách nhiệm đến cùng với sản phẩm của mình, kể cả khi sản phẩm đó đang được người tiêu dùng sử dụng. Vì thế, để tiêu thụ được sản phẩm, trang trải được các khoản chi phí, đảm bảo kinh doanh có lãi thật sự không phải là vấn đề đơn giản. Các doanh nghiệp phải đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu thị trường, đặc biệt là thị trường tiêu thụ sản phẩm, để từ đó đề ra các phương hướng và biện pháp nhằm duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm – một trong những yêu cầu hàng đầu của quản lý Doanh nghiệp.
Là sinh viên khoa Khoa học quản lý – em mong muốn được hiểu những vấn đề liên quan tới thị trường một cách hệ thống và sâu sắc. Và đó là lý do em chọn đề tài:
“Một số ý kiến góp phần đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cơ khí xây dựng Đại Mỗ”
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về thị trường và tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cơ khí Xây dựng.
Chương II: Thực trạng hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cơ khí Xây dựng Đại Mỗ.
Chương III: Một số giải pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm của Công ty Cơ khí Xây dựng Đại Mỗ.
Chương I
Lý luận chung về thị trường và tiêu thụ sản phẩm của công ty cơ khí xây dựng.
I. Các quan điểm cơ bản về thị trường
1. Khái niệm thị trường
Theo Các Mác, hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra không phải để người sản xuất tiêu dùng mà sản xuất ra để bán. Hàng hoá được bán ở thị trường.
Có nhiều quan điểm khác nhau về thị trường:
1.1. Theo định nghĩa của kinh tế học: Thị trường là sự biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các quyết định của Công ty về sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết định của người công nhân về việc làm bao lâu, cho ai đều được dung hoà bằng sự điều chỉnh giá cả.
1.2. Theo quan điểm của Maketing: Thị trường là tổng số nhu cầu ( hoặc tập hợp nhu cầu) về một loại hàng hoá nào đó, là nơi diễn ra các hoạt động mua bán hàng hoá bằng tiền tệ. Theo khái niệm này, thị trường chứa tổng số cung, tổng số cầu và cơ cấu của tổng cung, cầu về một loại hàng hoá, nhóm hàng hoá nào đó. Thị trường bao gồm cả yếu tố không gian và thời gian. Trên thị trường luôn diễn ra các hoạt động mua bán và các quan hệ hàng hoá tiền tệ.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường
Thị trường là một lĩnh vực kinh tế phức tạp, do đó các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường cũng rất phong phú và phức tạp. Để nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường, cần phân loại các yếu tố đó.
2.1. Xét theo sự tác động của các lĩnh vực thị trường.
Người ta chia các yếu tố thuộc về kinh tế – chính trị – xã hội, tâm sinh lí.
Các nhân tố về kinh tế có vai trò quyết định, bởi vì nó có tác động trực tiếp đến cung cầu, giá cả, tiền tệ, quan hệ cung cầu. Các nhân tố thuộc về kinh tế rất phong phú.
Các nhân tố thuộc về chính trị – xã hội cũng có ảnh hưởng to lớn đến thị trường. Các nhân tố này thường được thể hiện qua chính sách tiêu dùng, dân tộc, quan hệ quốc tế, chiến tranh và hoà bình… Nhân tố chính trị – xã hội tác động trực tiếp tới kinh tế và do đó cũng tác động trực tiếp đến thị trường.
Các nhân tố tâm, sinh lí tác động mạnh mẽ tới người tiêu dùng và do đó cũng tác động mạnh mẽ tới nhu cầu và mong muốn trên thị trường.
Cũng như các nhân tố thuộc về tâm, sinh lí, nhân tố thời tiết khí hậu cũng ảnh hưởng to lớn đến người tiêu dùng, tới nhu cầu và mong muốn. Tuy nhiên, thời tiết, khí hậu cũng ảnh hưởng mạnh mẽ tới sản xuất, tới cung của thị trường.
2.2. Theo tính chất quản lý, cấp quản lý
Người ta chia ra các nhân tố quản lý vĩ mô và các nhân tố thuộc quản lý vi mô.
Các nhân tố thuộc về quản lý vĩ mô là các chủ trương, chính sách, biện pháp của nhà nước, các cấp tác động vào thị trường. Thực chất những nhân tố này thể hiện sự quản lý của nhà nước với thị trường, sự điều tiết của nhà nước đối với thị trường.
Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước, từng thị trường, từng thời kỳ mà các chủ trương, chính sách và các biện pháp của nhà nước tác động vào thị trường mạnh mẽ khác nhau.
Những nhân tố thuộc về quản lý vi mô là những chiến lược, chính sách và biện pháp của các cơ sở kinh doanh sử dụng trong kinh doanh. Những nhân tố này rất phong phú và phức tạp. Những nhân tố này thường là những chính sách làm sản phẩm thích ứng với thị trường như phân phối hàng hoá, giá cả, quảng cáo, các bí quyết cạnh tranh… Đó cũng là những chiến lược, chính sách, biện pháp để các cơ sở kinh doanh tiếp cận và thích ứng với thị trường… Các cơ sở kinh doanh quản lý được các yếu tố này.
Nghiên cứu thị trường là quá trình phân tích thị trường về mặt lượng và mặt chất. Mục đích chủ yếu của việc nghiên cứu thị trường là tìm ra những khoảng trống của thị trường, tìm chiến lược thị trường ( vô khúc, đa khúc đa đoạn, một khúc trung tâm ) để từ đó xác định được chiến lược Maketing thích ứng cho khúc hay đoạn thị trường đó.
Nội dung chủ yếu của nghiên cứu thị trường là việc nghiên cứu khả năng thâm nhập thị trường và mở rộng thị trường của Doanh nghiệp. Hiện nay, người ta thường tiến hành hai loại nghiên cứu thị trường và tương ứng với chúng là các phương pháp nghiên cứu khái quát thị trường và nghiên cứu chi tiết thị trường.
II. Các quan điểm cơ bản về tiêu thụ
1. Khái niệm về tiêu thụ
Theo nghĩa hẹp, hoạt động tiêu thụ sản phẩm là quá trình trao đổi hàng hoá giữa các chủ thể thông qua mua bán trên thị trường.
Với quan niệm Doanh nghiệp là một chủ thể kinh tế cho nên hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp phải gắn cả 3 khâu: Mua, Sản xuất và Bán. Đặc trưng lớn nhất của sản xuất hàng hoá là sản phẩm sản xuất ra để bán nhằm mục đích thực hiện những mục tiêu đã định trong chương trình hoạt động của người sản xuất cũng như của mỗi Doanh nghiệp.
Trên góc độ kinh tế, tiêu thụ sản phẩm là quá trình chuyển hoá quyền sở hữu và quyền sử dụng hàng hoá - tiền tệ giữa các chủ thể kinh tế. Hay nói cách khác, tiêu thụ sản phẩm là quá trình thực hiện giá trị của hàng hoá, qua tiêu thụ hàng hoá được chuyển từ hình thái hiện vật sang hình thái tiền tệ và vòng chu chuyển vốn sản xuất kinh doanh của mỗi đơn vị được tiến hành.
Trong nền kinh tế thị trường, các vấn đề kinh tế cơ bản hoàn toàn do Doanh nghiệp quyết định nên hoạt động tiêu thụ sản phẩm được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Đó là một quá trình kinh tế bao gồm nhiều khâu từ việc nghiên cứu nhu cầu thị trường đến xác định nhu cầu khách hàng cho đến việc tổ chức mạng lưới tiêu thụ hàng hoá.
Đứng trên góc độ luân chuyển tiền vốn thì tiêu thụ sản phẩm là một quá trình chuyển hoá hình thái giá trị của vốn từ hình thái sản phẩm hàng hoá sang hình thái tiền tệ. Sản phẩm hàng hoá chỉ được coi là tiêu thụ khi Doanh nghiệp đã nhận tiền bán hàng ( hoặc người mua chấp nhận trả tiền ).
2. ý nghĩa của hoạt động tiêu thụ sản phẩm
Trong thời kỳ hiện nay, việc tiêu thụ sản phẩm luôn là vấn đề đáng quan tâm của các Công ty. Bởi vì nó đảm bảo công tác tiêu thụ sản phẩm Công ty mới đạt được mục tiêu cuối cùng của mình là thu được lợi nhuận cao nhất, từ đó có cơ sở tích luỹ và tiến hành tái sản xuất mở rộng.
2.1.Tiêu thụ sản phẩm là một khâu quan trọng của quá trình tái sản xuất trong các Công ty.
Quá trình sản xuất kinh doanh là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều khâu liên tục: sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng. Mỗi khâu đảm nhận một chức năng nhất định trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh đồng thời lại có mối quan hệ thống nhất chặt chẽ với nhau. Nếu bất kỳ một khâu nào bị gián đoạn nó cũng ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình, nó làm cho quá trình sản xuất không thể thực hiện được. Như vậy để quá trình sản xuất diễn ra bình thường thì tất cả các khâu phải hoạt động và thực hiện chức năng của mình.Mỗi khâu đều giữ một vai trò quan trọng trong quá trình đó, song tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng hơn cả đối với các Công ty hiện nay, nó đóng vai trò quyết định đến sự tồn tại và phát triển của Công ty. Sở dĩ nó có vai trò quan trọng như vậy là vì sản phẩm sản xuất ra là để trao đổi, để bán. Nếu không bán được hàng thì không có tiền để mua các yếu tố đầu vào phục vụ sản xuất kinh doanh, nói cách khác là Công ty sẽ không thu hồi được vốn đầu tư để tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó, chỉ khi bán được hàng, công tác tiêu thụ được thực hiện tốt thì Công ty mới thu hồi được vốn đầu tư, tái sản xuất mở rộng và giải quyết được mọi vấn đề, mọi mối quan hệ từ mua bán trao đổi, lương thưởng…đến việc phân phối lợi nhuận trong và ngoài Công ty.
2.2. Tiêu thụ sản phẩm giúp cho Công ty tạo ra doanh thu và lợi nhuận
Đặc trưng của quá trình sản xuất kinh doanh là thực hiện quá trình T- H-H’-T’. T’ là doanh thu từ việc tiêu thụ sản phẩm. Do vậy, hoạt động tiêu thụ có ý nghĩa và hiệu quả thì T’ > T nghĩa là tổng lượng tiền thu về từ hoạt động bán phải lớn hơn tổng lượng tiền bỏ ra để hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận của Công ty phụ thuộc vào tổng hợp các nhân tố ở cả ba hoạt động: Mua, Sản xuất và Bán. Lợi nhuận của Công ty cho phép Công ty đầu tư mở rộng sản xuất và đầu tư chiều sâu. Qua doanh thu và lợi nhuận có thể đánh giá được hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty đó. Đó là bằng chứng về mặt kinh tế cho biết Công ty có khả năng tồn tại và phát triển hay không. Đây là yếu tố đánh giá cao nhất.
2.3. Tiêu thụ sản phẩm giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ, trong việc duy trì mối quan hệ chặt chẽ giữa Công ty với khách hàng.
Để có thể phát triển thì sản phẩm của Công ty cần phải được tiêu thụ với số lượng ngày càng nhiều, sản phẩm không chỉ được bán trên thị trường đã có mà còn phải tìm cách mở rộng thị trường, tìm các thị trường mới, đây là lĩnh vực do công tác tiêu thụ đảm nhận. Hơn nữa, phải giữ được khách hàng rồi mới tính đến việc mở rộng thị trường, do vậy phải duy trì mối quan hệ với khách hàng. Đây chính là nhiệm vụ của tiêu thụ sản phẩm, cần phải tìm hiểu khách hàng, biết được họ muốn gì? bao nhiêu? và đòi hỏi người cung cấp phục vụ như thế nào? …
ở đây tập trung mâu thuẫn giữa người bán và người mua. Người bán bao giờ cũng muốn bán với giá cao và người mua bao giờ cũng muốn mua với giá thấp…các mâu thuẫn này luôn tồn tại khách quan trong quá trình sản xuất kinh doanh gắn liền với tiêu thụ sản phẩm. Và chỉ khi nào khâu tiêu thụ sản phẩm được thực hiện thì khi đó các mâu thuẫn này mới được giải quyết.
2.4.Tiêu thụ sản phẩm góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty không chỉ thể hiện ở các chỉ tiêu cuối cùng như doanh thu, lợi nhuận mà nó còn thể hiện ở các chỉ tiêu kinh tế – xã hội khác như : Sự ô nhiễm môi trường, uy tín của Công ty trên thi trường…Để nâng cao hiệu quả này, các Công ty luôn tìm kiếm và áp dụng nhiều biện pháp khác nhau như : Đổi mới công nghệ, tăng sản lượng tiêu thụ, hạ giá thành…So với thực tế hiện nay ở các Công ty việc hoàn thiện công tác tiêu thụ sản phẩm, tăng sản lượng tiêu thụ vẫn là một biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty nên nó chịu nhiều ảnh hưởng tích cực và tiêu cực. Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ sản phẩm là một yêu cầu cần thiết nhằm hướng hoạt động tiêu thụ sản phẩm ngày càng hiệu quả hơn. Các nhân tố ảnh hưởng này có thể chia thành bốn nhóm sau:
3.1. Các nhân tố thuộc về thị trường
Thị hiếu và tập quán người tiêu dùng : Mỗi dân tộc đều có tập quán tiêu dùng khác nhau, nó chịu ảnh hưởng của nền văn hoá, bản sắc dân tộc…Vì vậy các sản phẩm khi được sản xuất ra đều phải tính đến các yếu tố này. Mặt khác thị hiếu cũng là một nhân tố mà nhà sản xuất cần phải quan tâm không chỉ định giá bán tung ra thị trường mà phải tính đến ngay từ khi xây dựng chiến lược kinh doanh, quyết định phương án sản phẩm đảm bảo tiêu thụ nhanh, nhiều và có lãi. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay nếu sản phẩm sản xuất ra không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng thì khó có thể tiêu thụ được và nếu cứ tiếp tục sản xuất thì vấn đề giải thể hay phá sản là không thể tránh khỏi. Ngược lại, nếu sản phẩm sản xuất ra đáp ứng được nhu cầu thị trường, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng thì sản phẩm sẽ rất dễ tiêu thụ, khách hàng sẽ tìm đến và lựa chọn sản phẩm của Công ty. Do đó, thị hiếu là nhân tố kích thích tiêu thụ mạnh mẽ và cũng là nhân tố có tính quyết định đến quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty.
Quan hệ cung cầu thị trường: Ta đã biết cầu là một lượng nhất định của hàng hoá mà người mua muốn mua ở một mức giá có thể chấp nhận được. Trong kinh doanh giá cả thị trường do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả sẽ cao hơn và ngược lại. Do đó, giá cả hàng hoá có mối quan hệ chặt chẽ với cung cầu. Hay nói cách khác, nói tới cung cầu là nói đến giá cả, cung cầu chỉ có nghĩa khi gắn với mức giá xác định . Cung cầu tạo nên thị trường, khi một nhu cầu nào đối với một mặt hàng cụ thể nào xuất hiện trên thị trường, người sản xuất sẽ cố gắng tìm cách để đáp ứng nhu cầu đó. Việc cung ứng hàng hoá đó vừa đủ để thoả mãn nhu cầu về nó trong một thời kỳ nhất định gọi là trạng thái cân bằng cung cầu. Bất cứ một sự biến động nào ảnh hưởng đến cung cầu trên thị trường như: giá cả các yếu tố đầu vào giảm, năng suất lao động cao, sản phẩm làm ra nhiều, những biến động khác làm ảnh hưởng đến những biến động thu nhập của dân cư, những vấn đề chính trị, xã hội, lạm phát , thất nghiệp, những thiên tai dịch hoạ khác… đều làm ảnh hưởng đến sản lượng hàng hoá sản xuất ra và tiêu thụ. Nếu chúng tác động đến cung sẽ làm cho lượng cung tăng hoặc giảm và do đó sẽ tạo nên sự thiếu hụt hay dư thừa sản phẩm sản xuất ra và ngược lại nếu chúng tác động đến cầu thì vấn đề tương tự sẽ xảy ra. Và như vậy công tác tiêu thụ sản phẩm sẽ chịu ảnh hưởng trực tiếp của hai yếu tố này. Đặc biệt là trong trường hợp dư thừa sản phẩm, hàng hoá sản xuất ra quá nhiều, vấn đề tiêu thụ trở nên vô cùng phức tạp. Do đó các Công ty cần phải nắm bắt được các biến động này của quy luật cung cầu để có những đối sách hợp lý và có hiệu quả.
Thu nhập của người tiêu dùng: Đây là nhân tố quyết định đến hành động mua hàng của người tiêu dùng, với mức thu nhập hạn chế người tiêu dùng phải phân bổ cho hàng loạt các nhu cầu mua sắm cho gia đình, cho mỗi cá nhân. Vì lẽ đó ta có thể nói thu nhập của các hộ gia đình thể hiện khả năng thanh toán của người tiêu dùng cho các nhu cầu của họ. Họ sẽ ưu tiên hơn việc sử dụng thu nhập đó cho các nhu cầu cơ bản, thiết yếu.
Xét trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, thu nhập bình quân đầu người chưa cao nên các Doanh nghiệp cần phải lưu ý trong khi định giá bán để đảm bảo phù hợp với khả năng thanh toán của người tiêu dùng.
Hàng hoá thay thế: Là những hàng hoá có cùng giá trị sử dụng, có khả năng thoả mãn cùng một yêu cầu nào đó của người tiêu dùng. Nếu giá của một hàng hoá tăng thì cầu về hàng hoá thay thế của nó sẽ tăng lên. Do có sự thay thế đó nên có tác động lớn đến thị trường tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp mà cụ thể là hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
3.2. Các nhân tố thuộc về bản thân Công ty.
Đây là tập hợp các nhân tố có ảnh hưởng đến sản phẩm của Công ty trên thị trường chúng bao gồm:
Công nghệ sản xuất:
Là nhân tố quyết định đến chất lượng sản phẩm của Công ty. Công nghệ sản xuất hiện đại một mặt nâng cao năng suất lao động của Công ty, là cơ hội để Công ty hạ giá thành sản phẩm, một mặt giúp Công ty cho ra đời những sản phẩm chất lượng cao, tiết kiệm nguyên vật liệu...Điều này ảnh hưởng lớn đến quá trình tiêu thụ bởi hai lý do kể trên.
Chi phí sản xuất:
Là tất cả những chi phí phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty, chi phí sản xuất không ảnh hưởng đến quá trình tiêu thụ một cách trực tiếp nhưng nó có tác động gián tiếp thông qua giá cả, chi phí sản xuất là cơ sở để xác định giá bán sản phẩm, chi phí sản xuất càng thấp thì Công ty càng có khả năng cạnh tranh về giá trên thị trường, càng có sức hấp dẫn, lôi kéo người tiêu dùng về với Công ty.
Nhân tố con người.
Đây là nhân tố chủ quan thuộc về Công ty. Nó đóng vai trò trực tiếp quyết định hiệu quả của hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Bởi lẽ, toàn bộ những nội dung của quá trình này đều do đội ngũ cán bộ nhân viên của Công ty tổ chức thực hiện. Chiến lược tiêu thụ của Công ty, kế hoạch tiêu thụ... có được xây dựng và thực hiện chính xác và hiệu quả hay không cũng do nhân tố này quyết định. Vì vậy, đội ngũ cán bộ có chuyên môn giỏi am hiểu nghiệp vụ là nhân tố cơ bản làm nên thành công của Công ty nói chung và hoạt động tiêu thụ nói riêng.
3.3. Nhân tố cạnh tranh.
Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường là yếu tố khách quan, không thể thiếu trong cơ chế vận động của nó. Cạnh tranh là linh hồn sống của cơ chế thị trường, nó buộc các Công ty phải tự vươn lên, lỗ lực phấn đấu trong quản lý sản xuất, trong quản trị kinh doanh nhằm giành được phần lớn hơn chỗ đứng của sản phẩm của Công ty trên thị trường. Mức độ của cạnh tranh còn tuỳ thuộc vào hình thái của thị trường mà Công ty đang tiến hành khai thác. Chiến thắng trong cạnh tranh có nghĩa là mở ra cho Công ty một khả năng phát triển mới, một thị trường lớn hơn. Ngược lại thất bại trong cạnh tranh gây khó khăn rất lớn cho hoạt động kinh doanh của các Công ty nói chung và cho hoạt động tiêu thụ của Công ty nói riêng.
3.4. Sự điều tiết của Nhà nước.
Ta đã biết rằng trong thời đại ngày nay, ở bất kỳ một quốc gia nào Nhà nước cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước đó. Nhà nước tác động đến các chủ thể kinh tế thông qua các chính sách, chủ trương và biện pháp cụ thể nhằm đạt được sự phát triển toàn diện theo định hướng. Song, mức độ tác động phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước, đặc biệt là chế độ chính trị của nước đó. Điều mà các chủ thể kinh tế hay các Công ty quan tâm là việc đưa ra các chính sách vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Có thể nói các chính sách vĩ mô của Nhà nước đều có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi Công ty. Sự tác động này đương nhiên có thể là tác động tích cực hay tiêu cực. Chẳng hạn như các chính sách hạ thấp tỷ lệ vốn vay, hạn chế nhập khẩu, tăng cường công tác chống buôn lậu ... sẽ có tác động tốt đến các Công ty và ngược lại các chính sách như tăng thuế, tăng giá xăng dầu, tăng giá điện, hạn chế thương mại ... sẽ có ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
4. Nội dung cơ bản hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty.
4.1. Nghiên cứu và dự báo thị trường.
Nghiên cứu thị trường.
Trong cơ chế thị trường, thị trường tạo ra môi trường kinh doanh của các Công ty. Công ty nào có khả năng thích ứng với sự tác động và sự biến đổi của thị trường thì Công ty đó mới có điều kiện tồn tại và phát triển. Mặt khác, trên thị trường còn có những Công ty khác cùng hoạt động, Công ty nào cũng