Phát triển nền kinh tế ở mức cao và bền vững, xoá hẳn 2 từ đói nghèo trên đất nước là mục tiêu theo đuổi của tất cả các nước trên thế giới. Tuỳ theo mỗi thời kỳ, giai đoạn mà mỗi nước lựa chọn riêng cho mình một con đường đi đến đích thích hợp là sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay thì con đường đi chung mà tất cả các nước đều lựa chọn đó là con đường hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và thế giới mà chúng ta hay gọi là xu thế hội nhập.
Việt nam đang từng bước đi trên con đường chung đó, xong trước mắt còn rất nhiều gian nan thử thách bởi nền kinh tế Việt Nam còn rất nhiều bất cập chưa đáp ứng được điều kiện của hội nhập. Thấy được những khó khăn của mình thời gian qua Nhà Nước ta đã chỉ đạo thực hiện rất nhiều chính sách để đổi mới toàn diện nền kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập diễn ra nhanh chóng và an toàn. Nghành ngân hàng một nghành kinh tế chủ lực của nền kinh tế đã thực hiện tốt vai trò nhiệm vụ của mình trong thời kỳ đổi mới với việc thực hiện điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả như ổn định giá trị tiền tệ, kiềm chế lạm phát của NHNN. Với hệ thống ngân hàng thương mại thì ngày càng hoàn thiện các nghiệp vụ của mình thực hiện tốt vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế thời gian qua. Trong giai đoạn hiện nay giai đoạn mà xu thế hội nhập diễn ra nhanh chóng thì nghành ngân hàng có những đổi mới tích cực diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết thể hiện ở việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN với hàng loạt các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng của các công cụ chính sách tiền tệ. Một trong những chính sách đổi mới trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNNđể góp phần tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế để quá trình hội nhập diễn ra nhanh là sự thay đổi trong điều hành lãi suất với việc bỏ cơ chế quản lý lãi suất bằng biện pháp hành chính sang cơ chế lãi suất thị trường. Đây được coi là một đổi mới có tính đột phá trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNNgây chú ý của các thành phần kinh tế trong xã hội. Với mong muốn tìm hiểu về cơ chế lãi suất mới này Em chọn đề tài “Một vài suy nghĩ về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất thị trường – lãi suất thoả thuận” cho bài viết chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội dung bài viết của Em được chia làm 3 phần như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về cơ chế lãi suất trị trường.
Chương 2: Thực trạng tác động của cơ chế lãi suất thị trường đối với nền kinh tế.
Chương 3: Một vài suy nghĩ và những kiến nghị nhằm thực hiện thành công cơ chế lãi suất thoả thuận.
56 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1847 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Một vài suy nghĩ về cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nông nghiệp trong giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất thị trường – Lãi suất thoả thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục bảng biểu
Lời mở đầu 1
Chương 1: Những vấn đề chung về cơ chế lãi suất thị trường 3
1.1. Khái niệm lãi suất 3
1.2. Vai trò lãi suất trong nền kinh tế 4
1.3. Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN qua các thời kỳ 5
1.4. Sự cần thiết phải chuyển đổi lãi suất theo cơ chế thị trường 8
1.4.1. Cải cách kinh tế theo hướng thị trường đòi cải cách lãi suất 9
1.4.2. Cải cách khu vực ngân hàng theo định hướng thị trường đòi hỏi cải cách lãi suất 12
1.4.3. Xu thế hội nhập quốc tế đòi hỏi cải cách mạnh mẽ lãi suất 14
1.5. Những điều kiện để thực hiện cơ chế lãi suất thị trường 15
1.6. Những tác động tích cực của cơ chế lãi suất thị trường nên nền kinh tế nói chung 17
Chương 2: Thực trạng tác động của cơ chế lãi suất thị trường đối với nền kinh tế 20
2.1. Những thuận lợi và thách thức đối với Việt Nam khi thực hiện cơ chế lãi suất thị trường- lãi suất thoả thuận 20
2.1.1. Những điều kiện thuận lợi khi thực hiện lãi suất thị trường 20
2.1.2. Những thách thức đặt ra khi thực hiện lãi suất thị trường 23
2.2. Những tác động của việc áp dụng cơ chế lãi suất thị trường - lãi suất cho vay thoả thuận đối với hoạt động của NHTM 31
2.2.1. Tác động đối với hoạt động huy động vốn 32
2.2.2. Tác động đối với hoạt động cho vay 35
2.2.3. Cơ chế lãi suất thị trường –lãi suất thoả thuận tạo sức ép buộc các NHTM nâng cao trình độ nghiệp vụ và giảm thiểu các chi phí hoạt động 37
2.3.Cơ chế lãi suất thoả thuận và những tác động đối với hộ nông dân. 38
2.4. Những tác động đối với doanh nghiệp khi thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận 41
Chương 3: Một vài suy nghĩ và những kiến nghị nhằm thực hiện thành công cơ chế lãi suất thoả thuận 43
3.1. Đối với NHNN 43
3.1.1. Trước mắt cần có biện pháp làm hạ lãi suất thị trường 43
3.1.2. Xây dựng lãi suất chủ đạo của NHNN có tác động định hướng lãi suất thị trường 44
3.2. Đối với hệ thống NHTM 49
3.2.1. Tăng khối lượng vốn tự có của các NHTM 49
3.2.2 Nâng cao chất lượng quản lý, khả năng thẩm định khách hàng.. 50
3.2.3. Tăng cường tính cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng 50
3.2.4. Phát triển các chi nhánh ở vùng sâu, vùng xa 51
3.2.5. Tích cực tham gia thị trường mở 51
3.2.6. Xử lý tốt nợ quá hạn nợ xấu trong ngân hàng 51
3.3. Phát triển thị trường tài chính 52
3.4. Nâng cao hiệu quả hoạt động của trung tâm CIC 52
3.5. Cải cách hoạt động của NHNNo và PTNT 52
Kết luận 54
Phụ lục 55
Tài liệu tham khảo 56
Lời mở đầu
Phát triển nền kinh tế ở mức cao và bền vững, xoá hẳn 2 từ đói nghèo trên đất nước là mục tiêu theo đuổi của tất cả các nước trên thế giới. Tuỳ theo mỗi thời kỳ, giai đoạn mà mỗi nước lựa chọn riêng cho mình một con đường đi đến đích thích hợp là sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay thì con đường đi chung mà tất cả các nước đều lựa chọn đó là con đường hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và thế giới mà chúng ta hay gọi là xu thế hội nhập.
Việt nam đang từng bước đi trên con đường chung đó, xong trước mắt còn rất nhiều gian nan thử thách bởi nền kinh tế Việt Nam còn rất nhiều bất cập chưa đáp ứng được điều kiện của hội nhập. Thấy được những khó khăn của mình thời gian qua Nhà Nước ta đã chỉ đạo thực hiện rất nhiều chính sách để đổi mới toàn diện nền kinh tế nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập diễn ra nhanh chóng và an toàn. Nghành ngân hàng một nghành kinh tế chủ lực của nền kinh tế đã thực hiện tốt vai trò nhiệm vụ của mình trong thời kỳ đổi mới với việc thực hiện điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả như ổn định giá trị tiền tệ, kiềm chế lạm phát của NHNN. Với hệ thống ngân hàng thương mại thì ngày càng hoàn thiện các nghiệp vụ của mình thực hiện tốt vai trò là trung gian tài chính trong nền kinh tế thời gian qua. Trong giai đoạn hiện nay giai đoạn mà xu thế hội nhập diễn ra nhanh chóng thì nghành ngân hàng có những đổi mới tích cực diễn ra mạnh mẽ hơn bao giờ hết thể hiện ở việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN với hàng loạt các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng của các công cụ chính sách tiền tệ. Một trong những chính sách đổi mới trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNNđể góp phần tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế để quá trình hội nhập diễn ra nhanh là sự thay đổi trong điều hành lãi suất với việc bỏ cơ chế quản lý lãi suất bằng biện pháp hành chính sang cơ chế lãi suất thị trường. Đây được coi là một đổi mới có tính đột phá trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNNgây chú ý của các thành phần kinh tế trong xã hội. Với mong muốn tìm hiểu về cơ chế lãi suất mới này Em chọn đề tài “Một vài suy nghĩ về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN trong giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất thị trường – lãi suất thoả thuận” cho bài viết chuyên đề tốt nghiệp của mình. Nội dung bài viết của Em được chia làm 3 phần như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về cơ chế lãi suất trị trường.
Chương 2: Thực trạng tác động của cơ chế lãi suất thị trường đối với nền kinh tế.
Chương 3: Một vài suy nghĩ và những kiến nghị nhằm thực hiện thành công cơ chế lãi suất thoả thuận.
Chương 1
Những vấn đề chung về cơ chế lãi suất thị trường
Khái niệm lãi suất
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu tiết kiệm và đầu tư tồn tại như một tất yếu vì nó xuất phát từ đặc điểm tuần hoàn vốn tiền tệ trong nền kinh tế - tuần hoàn vốn tiền tệ, thể hiện cùng một lúc có những chủ thể trong nền kinh tế tạm thời có vốn chưa sử dụng gọi là thừa vốn tạm thời, ngược lại có những chủ thể ở tình trạng thiếu vốn tạm thời. Hiện tượng này tạo mâu thuẫn trong xã hội cần được giải quyết nếu không sẽ dẫn đến tình trạng lãng phí về vốn và căng thẳng về vốn. Tín dụng là phương pháp điều hoà vốn nhằm giải quyết mâu thuẫn trên và đưa vốn sử dụng có hiệu quả trong nền kinh tế.
Khi sử dụng bất kì khoản tín dụng nào, người đi vay cũng phải trả thêm 1 phần giá trị ngoài phần vốn gốc vay ban đầu cho người cho vay phần tăng thêm này gọi là lợi tức mà theo Mác thì đây chính là giá cả về quyền sử dụng vốn vay. Tỷ lệ phần trăm của lợi tức so với vốn vay ban đầu được gọi là lãi suất.
Vậy lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn vay trong thời gian nhất định mà người sử dụng vốn vay trả cho người sở hữu vốn.
Trong nền kinh tế thị trường, người đi vay cũng như người cho vay có thể là chính phủ, doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình hoặc cá nhân nước ngoài. Lãi suất tác động đến cả hai chủ thể người đi vay và người cho vay. Đối với người đi vay, lãi suất tạo nên một khoản chi phí, làm giảm lợi nhuận còn đối với người cho vay, lãi suất là một nguồn tạo ra thu nhập. Vì vậy, sự biến động của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống hàng ngày của mọi chủ thể kinh tế cụ thể như, lãi suất tác động đến những quyết định của các cá nhân, các doanh nghiệp như chi tiêu hay để dành, mua nhà hay mua trái phiếu hay gửi tiền tiết kiệm v.v. Do những ảnh hưởng đó của lãi suất đến nền kinh tế cho nên ngân hàng Nhà Nước với tư cách là người quản lí vĩ mô nền kinh tế, luôn phải xác định cơ chế điều hành lãi suất sao cho phù hợp với từng thời kì của nền kinh tế từ đó thoả mãn được nhu cầu của cả người tiết kiệm và người đầu tư.
1.2. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế.
- Lãi suất là công cụ khuyến khích tiết kiệm và đầu tư: Lãi suất là một công cụ kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm của các chủ thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế.
- Lãi suất ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vì doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì phải có những sản phẩm tốt, muốn vậy doanh nghiệp phải luôn cải tiến công nghệ sản xuất, nhưng điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư một lượng vốn lớn mà bản thân doanh nghiệp không thể bỏ ra ngay được. Vì vậy, doanh nghiệp phải vay vốn từ các ngân hàng, lãi suất phải trả cho các khoản vay là khoản chi phí của doanh nghiệp. Do vậy, lãi suất thấp sẽ khuyến khích doanh nghiệp vay vốn đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Mặt khác, lãi suất là công cụ buộc doanh nghiệp phải sử dụng vốn có hiệu quả do nếu không sử dụng hiệu quả vốn vay thì doanh nghiệp rất dễ dẫn đến phá sản.
- Lãi suất là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại: điều này được thể hiện rõ ràng trong cơ chế lãi suất thị trường, vì các ngân hàng thương mại muốn tăng khối lượng vốn huy động, đồng thời mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng thì các ngân hàng thương mại phải hạ lãi suất cho vay đồng thời tăng lãi suất huy động ở mức cho phù hợp với ngân hàng mình điều này là có lợi cho các chủ thể trong nền kinh tế. Đồng thời đòi hỏi các ngân hàng không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và ngày càng hoàn thiện để có chỗ đứng trên thị trường.
- Lãi suất là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
- Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế: nhìn vào tình hình biến động lãi suất trên thị trường trong một thời gian, người ta có thể thấy được tình hình kinh tế của một quốc gia. Trong giai đoạn đang phát triển của nền kinh tế lãi suất có xu hướng tăng do cung – cầu quỹ cho vay đều tăng, trong đó tốc độ tăng của cầu quỹ cho vay nhanh hơn tốc độ tăng của cung quỹ cho vay. Ngược lại trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế lãi suất có xu hướng giảm xuống. Lãi suất, mức lạm phát tính có mối quan hệ chặt với nhau cho nên căn cứ vào tình hình biến động của lãi suất có thể dự đoán được các yếu tố kinh tế khác.
. Cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng Nhà Nước qua các thời kì.
Lãi suất là một công cụ đặc biệt quan trọng trong tay NHNN để hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ. Lãi suất là vấn đề hết sức nhạy cảm trong nền kinh tế, nó tác động đến mọi khâu của quá trình sản xuất, kinh doanh, tích luỹ, tiêu dùng, tiết kiệm và đầu tư… Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn nước ta trong nhiều năm đổi mới cho thấy vai trò quan trọng của cơ chế điều hành lãi suất đối với mục tiêu ổn định và phát triển thị trường tài chính tiền tệ, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và tăng trưởng kinh tế. Trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tập chung sang nền kinh tế thị trường, cùng với việc đổi mới cơ chế điều hành chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng, cơ chế điều hành lãi suất đã được NHNN cải cách từng bước theo hướng lãi suất thị trường và thu được những thành quả cơ bản, sử lí dần dần các bất hợp lí trong cơ chế lãi suất, chế độ kiểm soát lãi suất cứng nhắc dần dần được nới lỏng theo hướng đi tự do hoá với những bước đi thận trọng, cụ thể như sau:
- Thời kì từ năm 1992 trở về trước: Cơ chế lãi suất tín dụng thời kì này thể hiện sự bao cấp về vốn của Nhà nước đối với nền kinh tế, lãi suất âm (lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất tiền gửi), ngân hàng quy định cụ thể từng mức lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay với từng loại hình doanh nghiệp, từng ngành nghề và lãi suất phân biệt theo từng thành phần kinh tế.
- Thời kì từ 6/1992 đến 1995: Giai đoạn thực hiện cơ chế lãi suất thực dương, lãi suất cho vay bình quân cao hơn lãi suất tiền gửi bình quân, lãi suất tiền gửi bình quân cao hơn tỷ lệ lạm phát. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể thời kì trước được thay thế bằng khung lãi suất (lãi suất cho vay tối đa và lãi suất tiền gửi tối thiểu), trong phạm vi khung lãi suất của NHNN, các TCTD được phép ấn định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể phù hợp với đặc thù hoạt động kinh doanh và cung cầu vốn từng thời điểm. Cơ chế lãi suất thời kì này thực sự phát huy vai trò tự nhiên vốn có của nó là đòn bẩy kinh tế, góp phần kiềm chế lạm phát, duy trì tăng trưởng kinh tế và đảm bảo lợi ích cho cả người gửi tiền, người vay và NHTM kinh doanh có lãi.
- Thời kì từ năm 1996 đến tháng 7/ 2000: Thời kì tiếp tục chính sách lãi suất thực dương nhưng được nới lỏng hơn thời kì trước đó, bằng việc thực hiện cơ chế trần lãi suất cho vay, có áp dụng một số mức trần khác nhau cho khu vực thành thị, nông thôn hoặc các loại hình TCTD trong thời hạn nhất định. Lãi suất tiền gửi bắt đầu được tự do hoá. Cùng với cơ chế tín dụng thương mại, các TCTD còn thực hiện cơ chế tín dụng ưu đãi thông qua chính sách lãi suất, đối với các đối tượng chính sách xã hội theo chỉ đạo của chính phủ.
- Thời kì từ tháng 8/2000 đến 30/5/2002: NHNN đã chuyển từ cơ chế điều hành lãi suất theo trần sang cơ chế điều hành lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng đồng Việt Nam và cơ chế lãi suất thị trường có quản lí đối với lãi suất cho vay ngoại tệ, phù hợp với luật NHNN và luật các TCTD. Đặc biệt từ tháng 6/2001, cơ chế điều hành lãi suất ngoại tệ được tiếp tục đổi mới một bước quan trọng, với việc bỏ quy định về biên độ lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ, lãi suất cho vay đô la Mỹ nói riêng và cho vay ngoại tệ nói chung đã hoàn toàn được tự do hoá. Các TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng đô la Mỹ theo thoả thuận với khách hàng, dựa trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn tín dụng bằng ngoại tệ ở trong nước. Cơ chế lãi suất tín dụng thời kì này là bước tiến quan trọng trong quá trình tự do hoá lãi suất, đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế đang trong quá trình hội nhập quốc tế. Cơ chế lãi suất tái chiết khấu của NHNN đối với các TCTD cũng dần được đổi mới từ cho vay trực tiếp nhằm bổ xung nguồn vốn lưu động cho TCTD sang cho vay tái cấp vốn, thực hiện vai trò NHNN là người cho vay cuối cùng. Lãi suất cho vay tái cấp vốn được điều chỉnh tăng hay giảm phù hợp với nội dung và mục tiêu của chính sách tiền tệ từng thời kì có tác động một cách gián tiếp lên lãi suất thị trường tiền tệ.
Tổng quan nhận xét rằng, trong 15 năm đổi mới vừa qua, cơ chế lãi suất của NHNN đã được hoạch định và điều hành theo định hướng tích cực, nới lỏng từng bước hướng tới tự do hoá, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong nước, mức độ hội nhập của nền kinh tế nước ta với thị trường tài chính khu vực và thế giới. Cơ chế điều hành lãi suất ngày càng trở nên linh hoạt hơn, bám theo cung cầu vốn thị trường, dần dần mở rộng quyền chủ động xác định lãi suất kinh doanh cho các TCTD để tăng khả năng cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo sự kiểm soát và điều hành của NHNN đối với lãi suất trên thị trường tiền tệ. Đi sâu vào cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, NHNN bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của các TCTD đối với khách hàng, chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường của các NHTM áp dụng đối với khách hàng có uy tín và một số các tiêu thức kinh tế vĩ mô khác. Mức lãi suất cơ bản được cộng thêm một biên độ bằng số phần trăm tuyệt đối sẽ là giới hạn lãi suất tối đa cho các TCTD được phép cho vay. Điểm khác biệt về nội dung đổi mới của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản khác với cơ chế điều hành lãi suất trước đó, kể cả cơ chế điều hành lãi suất trần là, việc xác định một mức lãi suất dựa vào quan hệ cung cầu vốn tín dụng trên thị trường, thông qua việc tính toán bình quân các mức lãi suất huy động và cho vay của một số NHTM được chọn làm đại diện cụ thể là 15 ngân hàng, đồng thời tham khảo cân nhắc thêm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiếu kho bạc và một số tiêu thức tăng trưởng kinh tế, lạm phát, tỷ giá.. Mức lãi suất này làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay. Rõ ràng là, nếu như cơ chế lãi suất trước đó chủ yếu được điều hành theo ý thức chủ quan áp đặt, hành chính thì cơ chế lãi suất này đã thể hiện một bước đổi mới cơ bản là NHNN đã điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường, chú trọng đến cung cầu vốn tín dụng và mục tiêu của chính sách tiền tệ. Lãi suất cơ bản cộng với một biên độ xác định trong từng thời kì, mặc dù biện pháp này còn mang tính hành chính, nhưng sự can thiệp chỉ mang tính chất quy định về nguyên tắc chung của NHNN và không quy định trực tiếp, cụ thể mức lãi suất cho vay của các TCTD. Việc điều chỉnh mức lãi suất cơ bản hàng tháng một cách linh hoạt đã tạo điều kiện bám sát tín hiệu thị trường, cung cầu vốn tín dụng, đáp ứng mục tiêu chính sách tiền tệ, đảm bảo sự kiểm soát của NHNN trên thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, để phù hợp với cơ chế thị trường ngày càng phát triển và hoàn thiện ở nước ta thì cơ chế lãi suất cần phải thay đổi sao cho phù hợp với thị trường.
- Từ 30/ 5/ 2002 đến nay: Ngày 30/ 5/ 2002, Thống đốc NHNN Việt Nam đã ban hành quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của TCTD đối với khách hàng. Rõ ràng đây là một bước chuyển đổi quan trọng, mạnh mẽ và cần thiết trong chính sách tín dụng, phù hợp với nguyên tắc thị trường, nhằm đảm bảo nguồn tài chính được sử dụng và phân bổ một cách hiệu quả hơn. Đến đây thì lãi suất thực sự đã được tự do hoá, được hình thành trên cơ sở quan hệ cung cầu vốn và bộc lộ những vai trò vốn có của nó.
1.4. Sự cần thiết phải chuyển đổi lãi suất theo cơ chế thị trường
Thực tiễn việc hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ thời gian qua cho thấy chính sách lãi suất là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ. Sự vận động, thay đổi chính sách lãi suất có tác động nhanh và mạnh đến thị trường tiền tệ, tín dụng tạo hiệu ứng rõ rệt đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng và tác động đối với nền kinh tế. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, lãi suất chưa được sử dụng một cách đầy đủ như một đòn bẩy kinh tế nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế, chuyển sang cơ chế thị trường, lãi suất phát huy mạnh mẽ vai trò vốn có của nó với tư cách là giá cả của vốn và chịu tác động của quan hệ cung cầu.
1.4.1. Cải cách kinh tế theo hướng thị trường đòi hỏi phải cải cách lãi suất
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, một nội dung đổi mới có tính chất then chốt là chuyển hệ thống ngân hàng từ 1cấp sang 2 cấp. Quá trình đổi mới bắt đầu từ 3/ 1988 theo nghị định 53/ NĐ của chính phủ và chính thức từ pháp lệnh ngân hàng 5/ 1990. Qua hơn 10 năm thực hiện đổi mới kinh tế toàn diện, các chính sách về giá cả (giá cả hàng hoá, tỷ giá hối đoái) ở Việt Nam đã được cải cách đáng kể theo định hướng thị trường, theo định hướng đó cơ chế bao cấp ở khu vực ngân hàng cũng từng bước được xoá bỏ và thay vào đó là chế độ hoạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường. Hệ thống ngân hàng 2 cấp được xác lập, NHNN thực hiện chức năng NHTƯ và quản lí nhà nước về tiền tệ. Hệ thống ngân hàng thương mại thực hiện chức năng NHTM là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng theo cơ chế thị trường, lãi suất ngân hàng với tư cách là một loại gía cũng từng bước được chuyển đổi theo hướng thị trường. Từ lãi suất thực âm chuyển sang lãi suất thực dương với các mức khống chế trần sàn lãi suất cho vay, loại bỏ dần các mức khống chế và giai đoạn gần đây nhất là cơ chế lãi suất cơ bản. Thực chất cơ chế này cũng vẫn còn là một hình thức lãi suất trần và trong giai đoạn hiện nay cơ chế này đã không còn phù hợp nữa do những hạn chế của nó vì vậy cần phải có cơ chế lãi suất mới phù hợp hơn.
Những hạn chế của cơ chế lãi suất cơ bản trong nền kinh tế thời gian qua được bộc lộ như:
- Sau gần hai năm áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản từ tháng 8/ 2000 đến tháng 6/ 2002 cho thấy, biên độ 0,3% đối với cho vay ngắn hạn và 0,5% đối với cho vay dài hạn là khá rộng cho các TCTD định đoạt mức lãi suất cho vay, kể cả việc cộng thêm các khoản chi phí liên quan đến khoản vay mà không vượt quá biên độ tối đa cho phép. Song thực tế thấy rằng biên độ lãi suất này chỉ phù hợp với cácTCTD Nhà Nước và các khoản tín dụng khu vực thành thị. Còn đối với các TCTD cổ phần và các khoản tín dụng khu vực nông thôn là chưa thoả đáng cụ thể:
Bảng1.1: Lãi suất cơ bản đơn vị:% tháng
Thời gian
Lãi suất cơ bản
Trần lãi suất cho vay
Lãi suất cho vay bình quân khu vực thành thị
Lãi suất cho vaybìnhquân khuvực nông thôn
Cho vay ngắn hạn
Cho vay dài hạn
8/ 00 đến 2/ 01
0,75
1,05
1.25
0,775
1,1
3/ 2001
0,725
1,025
1,225
0,75
1,1
4/ 2001
0,70
1,0
1,20
0,75
1,05
5/ 01 đến 9/ 01
0,65
0,95
1,15
0,75
1,05
10/01đến 5/ 02
0,60
0,9
1,10
0,725
0,9
Nguồn số liệu: Tạp chí ngân hàng số 7/2002
Theo bảng số liệu ta thấy lãi suất cho vay bình quân cả ngắn hạn và dài hạn của khu vực thành thị ngày càng giảm và luôn cách xa lãi suất trầ