Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), điều đó đã đem lại cho nền kinh tế nước ta nhiều cơ hội và thách thức mới. Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng, hoạt động kinh doanh trong nước trở nên năng động hơn bao giờ hết. Trong đó, ngành tài chính ngân hàng có sự chuyển biến mạnh mẽ và trở thành tâm điểm chú ý của toàn xã hội. Trong thời gian này, những NHTM cổ phần ngoài quốc doanh mở rộng mạng lưới chi nhánh, tăng vốn điều lệ và tiến hành cổ phần hoá. Tất cả vấn đề này đã tạo nên môi trường cạnh tranh sôi động trong lĩnh vực ngân hàng. Các ngân hàng với chức năng “đi vay để cho vay” đã nhanh chóng mở rộng các loại hình sản phẩm dịch vụ để thu hút vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, đồng thời đẩy mạnh hoạt động tín dụng để lấy thu bù chi.
Hoạt động tín dụng là hoạt động truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của NHTM. Nhưng hoạt động tín dụng lại chứa đựng rất nhiều rủi ro, bởi vì nó có mối quan hệ với các cá nhân, tổ chức khác trong toàn bộ nền kinh tế. Các cá nhân hay tổ chức hoạt động kinh doanh luôn chứa đựng nhiều rủi ro thậm chí là phá sản, cho nên khi đặt mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng - khách hàng thì rủi ro tiềm ẩn mà ngân hàng phải gánh chịu là hiển nhiên.
Muốn tồn tại và phát triển, các ngân hàng cần phải thiết lập một hệ thống kiểm soát chặt chẽ nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng nói riêng cũng như rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung. Hệ thống KTNB ra đời và phát triển phải đáp ứng yêu cầu đó. Phải phát huy hết sức hiệu quả kiểm tra, giám sát nội bộ và tư vấn hoạt động cho ngân hàng. Từ đó nâng cao hiệu quả công tác tín dụng cũng như quản lý điều hành trong hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta KTNB là một vấn đề khá mới mẻ với nhiều nhà quản lý và nó chưa được quan tâm đúng mức, chưa phát huy hết các chức năng của KTNB. Cũng như hệ thống các NHTM Việt Nam, công tác KTNB tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc bên cạnh những ưu điểm đạt được còn không ít những hạn chế. Vì vậy, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay, công tác KTNB hoạt động tín dụng hiệu quả sẽ giúp Chi nhánh góp phần hạn chế những rủi ro trong kinh doanh, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững.
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, khoá luận có bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán và kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng trong NHTM.
Chương 2: Thực trạng KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
81 trang |
Chia sẻ: dansaran | Lượt xem: 3520 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao chất lượng kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh Huyện Phú Lộc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I - ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), điều đó đã đem lại cho nền kinh tế nước ta nhiều cơ hội và thách thức mới. Trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày càng sâu rộng, hoạt động kinh doanh trong nước trở nên năng động hơn bao giờ hết. Trong đó, ngành tài chính ngân hàng có sự chuyển biến mạnh mẽ và trở thành tâm điểm chú ý của toàn xã hội. Trong thời gian này, những NHTM cổ phần ngoài quốc doanh mở rộng mạng lưới chi nhánh, tăng vốn điều lệ và tiến hành cổ phần hoá. Tất cả vấn đề này đã tạo nên môi trường cạnh tranh sôi động trong lĩnh vực ngân hàng. Các ngân hàng với chức năng “đi vay để cho vay” đã nhanh chóng mở rộng các loại hình sản phẩm dịch vụ để thu hút vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, đồng thời đẩy mạnh hoạt động tín dụng để lấy thu bù chi.
Hoạt động tín dụng là hoạt động truyền thống và chiếm tỷ trọng lớn trong thu nhập của NHTM. Nhưng hoạt động tín dụng lại chứa đựng rất nhiều rủi ro, bởi vì nó có mối quan hệ với các cá nhân, tổ chức khác trong toàn bộ nền kinh tế. Các cá nhân hay tổ chức hoạt động kinh doanh luôn chứa đựng nhiều rủi ro thậm chí là phá sản, cho nên khi đặt mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng - khách hàng thì rủi ro tiềm ẩn mà ngân hàng phải gánh chịu là hiển nhiên.
Muốn tồn tại và phát triển, các ngân hàng cần phải thiết lập một hệ thống kiểm soát chặt chẽ nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng nói riêng cũng như rủi ro trong hoạt động kinh doanh nói chung. Hệ thống KTNB ra đời và phát triển phải đáp ứng yêu cầu đó. Phải phát huy hết sức hiệu quả kiểm tra, giám sát nội bộ và tư vấn hoạt động cho ngân hàng. Từ đó nâng cao hiệu quả công tác tín dụng cũng như quản lý điều hành trong hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên, hiện nay ở nước ta KTNB là một vấn đề khá mới mẻ với nhiều nhà quản lý và nó chưa được quan tâm đúng mức, chưa phát huy hết các chức năng của KTNB. Cũng như hệ thống các NHTM Việt Nam, công tác KTNB tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc bên cạnh những ưu điểm đạt được còn không ít những hạn chế. Vì vậy, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay, công tác KTNB hoạt động tín dụng hiệu quả sẽ giúp Chi nhánh góp phần hạn chế những rủi ro trong kinh doanh, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững.
Nhận thức được sự cần thiết và vai trò của KTNB đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng, cùng với kiến thức đã được trang bị trong quá trình 4 năm học tại nhà trường, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh Huyện Phú Lộc” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu sau:
- Đề tài đề cập đến những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán và kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng trong NHTM.
- Đề tài tiến hành phân tích, đánh giá thực trạng KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là công tác KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: 2007 – 2009
- Nội dung: hoạt động KTNB của NHTM, thực trạng công tác KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
- Địa điểm nghiên cứu: tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tôi đã sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu và hệ thống hoá lý luận về NHTM, đánh giá thực trạng KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh Phú Lộc.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp này nhằm xử lý các số liệu thu thập được dùng để tiến hành đối chiếu, so sánh số liệu giữa các năm, sự tăng giảm các chỉ tiêu qua các kỳ phân tích.
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: Hỏi trực tiếp người cung cấp thông tin, dữ liệu cần thiết cho đề tài nghiên cứu. Phương pháp này được sử dụng trong giai đoạn thu thập những thông tin cần thiết và số liệu thô liên quan đến đề tài.
- Phương pháp kiểm toán hệ thống: Là phương pháp kiểm toán trong đó các thủ tục, kỹ thuật kiểm toán được thiết lập để thu thập các bằng chứng về tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán.
- Phương pháp kiểm toán cơ bản: Là phương pháp kiểm toán trong đó các thủ tục kiểm toán được thiết kế nhằm thu thập bằng chứng có liên quan do hệ thống kế toán xử lí và cung cấp.
6. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần đặt vấn đề và kết luận, khoá luận có bố cục gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm toán và kiểm toán nội bộ hoạt động tín dụng trong NHTM.
Chương 2: Thực trạng KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng KTNB hoạt động tín dụng tại NHNo&PTNT Chi nhánh huyện Phú Lộc.
PHẦN II – NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM TOÁN
VÀ KIỂM TOÁN NỘI BỘ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TRONG NHTM
1.1 Tổng quan về kiểm toán
1.1.1 Sơ lược về sự ra đời và phát triển của kiểm toán
Trên thế giới, thuật ngữ kiểm toán đã có từ lâu, từ khi xuất hiện nhu cầu xác định tính trung thực, độ tin cậy của thông tin trong báo cáo tài chính, kế toán và thực trạng tài sản của một chủ thể trong quan hệ kinh tế. Từ nền văn minh Ai Cập và La Mã cổ đại, đã xuất hiện kiểm toán cổ điển bằng cách những người làm công việc ghi chép kế toán đọc những số liệu, tài liệu cho bên độc lập nghe và nhận xét. Vì vậy, trong tiếng Anh từ Audit (kiểm toán), có gốc Latinh là Auditus (nghe).
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, kiểm toán đã rất phát triển từ thế kỷ XVIII, XIX. Riêng trong nền kinh tế các quốc gia thuộc hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, do có một thời gian dài có một số quan niệm hết sức duy ý chí về một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nên kiểm toán cũng là một lĩnh vực không được xem xét đến (xem như không cần thiết). Tuy nhiên, những quan niệm ấy càng bộc lộ những yếu kém, không phù hợp với quy luật khách quan và kiểm toán đã ra đời, đi vào hoạt động bắt đầu từ Nga, các nước Đông Âu, Trung Quốc… Tại Việt Nam, kiểm toán cũng mới chỉ thực sự có những hoạt động cụ thể từ khoảng hơn 10 năm nay mà thôi. Kiểm toán Việt Nam được chính thức xuất hiện từ tháng 5 năm 1991 với các Công ty kiểm toán độc lập, tháng 11 năm 1994 với kiểm toán Nhà nước và tháng 11 năm 1997 với kiểm toán nội bộ.
Trong hệ thống Ngân hàng Việt Nam, thuật ngữ kiểm toán mới xuất hiện từ những năm cuối của thập kỷ 80 của thế kỷ XX và phát triển dần theo sự phát triển và đổi mới nền kinh tế. Trước khi có luật bổ sung sửa đổi: Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam, trong hệ thống ngân hàng nước ta chưa định hình hệ thống kiểm soát nội bộ mà chỉ có hệ thống kiểm toán nội bộ trong các tổ chức tín dụng và đến năm 1999, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 03/1998/QĐ-NHNN3 ngày 03/01/1998: “Quy chế mẫu về tổ chức và hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ trong các TCTD hoạt động tại Việt Nam”.
Theo quy định tại Quyết định số 03 nêu trên của NHNN, TCTD phải lập hệ thống kiểm tra, kiểm toán nội bộ thuộc hệ điều hành, giúp Tổng giám đốc (Giám đốc) điều hành thông suốt, an toàn và đúng pháp luật hoạt động nghiệp vụ của TCTD.
Các TCTD phải kiểm tra thường xuyên việc chấp hành pháp luật và các quy định nội bộ; kiểm tra trực tiếp các hoạt động nghiệp vụ trên tất cả các lĩnh vực tại Sở giao dịch, Chi nhánh, Văn phòng đại diện và các công ty trực thuộc. TCTD phải kiểm toán hoạt động nghiệp vụ từng thời kỳ, từng lĩnh vực nhằm đánh giá chính xác kết quả hoạt động kinh doanh và thực trạng tài chính của TCTD.
Kết quả kiểm tra, kiểm toán nội bộ phải báo cáo kịp thời với Tổng giám đốc (Giám đốc), Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Cũng theo quy định trên, tổ chức bộ máy kiểm tra nội bộ trực thuộc Tổng giám đốc (Giám đốc) của TCTD.
Căn cứ Luật TCTD và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD năm 2004, ngày 1 tháng 8 năm 2006, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 36/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy chế kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD và Quyết định số 37/2006/QĐ-NHNN ban hành Quy chế kiểm toán nội bộ của các TCTD.
1.1.2 Khái niệm và bản chất của kiểm toán
Như trên đã nêu, kiểm toán mới chỉ xuất hiện ở Việt Nam trong những năm gần đây, với những kinh nghiệm học hỏi từ những nước khác nhau, những tài liệu khác nhau và với những suy nghĩ chủ quan khác nhau nên dẫn tới có những quan niệm khác nhau về kiểm toán. Có thể khái quát thành ba quan điểm chính như sau:
Quan điểm thứ nhất: Kiểm toán được đồng nghĩa với kiểm tra kế toán. Nội dung của hoạt động này là rà soát các thông tin kế toán, chứng từ kế toán và tổng hợp cân đối kế toán. Thực ra, đây là một chức năng vốn có của bản thân kế toán. Quan điểm này chỉ tồn tại vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới, thời kỳ chúng ta bắt đầu chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước.
Quan điểm thứ hai: Là quan điểm theo các tác giả Alvin A.Arens và James K.Loebbecker: “Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể định lượng được của một đơn vị cụ thể, nhằm mục đích xác nhận và báo cáo về mức độ phù hợp giữa các thông tin với các chuẩn mực đã được thiết lập”. Đây là quan điểm phát sinh cùng với sự ra đời của cơ chế thị trường và được sử dụng trước tiên tại các nước sớm có nền kinh tế thị trường phát triển.
Quan điểm thứ ba: Trong thời kỳ nền kinh tế thị trường đã phát triển mạnh mẽ, người quan tâm đến thông tin kinh tế - tài chính của đơn vị không chỉ có Nhà nước mà còn có cả các chủ thể khác trong nền kinh tế. Hơn nữa, đôi khi đối tượng kiểm toán không chỉ là các thông tin mang tính định lượng. Chính vì vậy, theo quan điểm này, kiểm toán có phạm vi rất rộng, bao gồm: kiểm toán quy tắc (kiểm toán tuân thủ), kiểm toán hoạt động, kiểm toán báo cáo tài chính.
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu khái niệm về kiểm toán như sau:
Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập có thẩm quyền, có kỹ năng thu thập và đánh giá các bằng chứng khách quan, từ đó bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động được kiểm toán sau khi đối chiếu với các chuẩn mực được xây dựng cho việc báo cáo thông tin đó.
1.1.3 Vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường
Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thực hiện chủ trương đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế được mở rộng và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế như vậy, thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ để báo cáo cho các cơ quan quản lí nhà nước để kiểm tra và xét duyệt mà nay các thông tin này cần cho nhiều người, được nhiều đối tượng quan tâm, khai thác sử dụng cho các quyết định kinh tế. Tuy ở nhiều góc độ khác nhau nhưng tất cả các đối tượng này đều có cùng nguyện vọng là có được các thông tin có độ chính xác cao, tin cậy và trung thực.
Luật pháp yêu cầu và để yên lòng người sử dụng các báo cáo tài chính phải được kiểm toán và chỉ có những thông tin kinh tế đã được kiểm toán mới là căn cứ tin cậy cho việc đề ra các quyết định hiệu quả và hợp lí. Việc các quy định mang tính pháp lí bắt buộc các thông tin tài chính trước khi công bố phải được kiểm toán, điều này thể hiện rõ nét vai trò của kiểm toán trong quá trình đổi mới nền kinh tế.
Trong các quan hệ kinh tế nhờ có kiểm toán mà các doanh nghiệp đã tìm được tiếng nói chung đó là sự tin cậy lẫn nhau, sự thẳng thắn, trung thực trình bày về tình hình tài chính của mình. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá, lựa chọn đối tác kinh doanh. Đặc biệt trong quan hệ hợp tác kinh doanh với nước ngoài, nếu nhà đầu tư nước ngoài muốn tìm hiểu về hoạt động kinh doanh và đánh giá tình hình của một doanh nghiệp trước khi đầu tư, hợp tác kinh doanh thì chi phí cho cuộc kiểm toán sẽ hiệu quả và rẻ hơn nhiều so với chi phí mà hai bên phải bỏ ra để đàm phán tự chứng minh về khả năng tài chính của mình. Đồng thời ý kiến khách quan của kiểm toán luôn đáng tin cậy hơn. Ngay cả khi các công ty có vốn đầu tự nước ngoài được thành lập thì nhu cầu kiểm toán của các công ty này là tất yếu bởi yêu cầu quản lí của các đối tác nước ngoài trong doanh nghiệp.
Hoạt động kiểm toán còn thu hút được lực lượng lớn các lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và đặc biệt là lực lượng chuyên gia tư vấn nước ngoài làm việc tại các công ty kiểm toán quốc tế.
Kiểm toán thực hiện kiểm tra tính trung thực hợp lí hợp pháp của thông tin trong hoạt động kinh tế, tài chính làm lành mạnh hoá các quan hệ tài chính, cung cấp các thông tin trung thực cho quản lí vĩ mô trong nền kinh tế.
Với bên thứ ba, kiểm toán đã giúp ngân hàng, các công ty tài chính, các nhà đầu tư, các cổ đông, đối tác… có đủ thông tin tin cậy, bằng chứng xác đáng để đưa ra quyết định có đầu tư, liên quan đến đơn vị được kiểm toán.
1.1.4 Phân loại kiểm toán
Có hai cách phân loại kiểm toán, phân loại theo chủ thể và phân loại theo chức năng.
1.1.4.1 Phân loại theo chức năng kiểm toán
Căn cứ theo chức năng kiểm toán có thể chia công việc kiểm toán thành ba loại: kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán báo cáo tài chính.
( Kiểm toán hoạt động
Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá về tính kinh tế, tính hữu hiệu và tính hiệu quả của một hoạt động để đề xuất phương án cải tiến. Ở đây tính kinh tế là xem xét đánh giá công việc đạt được mục tiêu đề ra với chi phí nhỏ nhất; tính hữu hiệu là khả năng hoàn thành nhiệm vụ hay mục tiêu; còn tính hiệu quả chính là việc đạt được kết quả cao nhất với một nguồn lực nhất định, hay còn gọi là nguyên tắc tối đa.
Đối tượng của loại hình này rất đa dạng, cụ thể có thể bao gồm:
- Kiểm tra việc huy động, phân phối, sử dụng một cách tiết kiệm và có hiệu quả các nguồn nhân lực (nhân lực, vật tư, hàng hoá, tài sản, tiền vốn…) của doanh nghiệp.
- Kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động sản xuất, kinh doanh; phân phối và sử dụng thu nhập; kết quả bảo toàn và phát triển vốn.
- Kiểm tra và đánh giá tính hiệu quả hoạt động của các bộ phận chức năng trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong loại hình kiểm toán này chuẩn mực đánh giá được xác định tuỳ theo từng đối tượng cụ thể, vì thế không có chuẩn mực chung, và việc lựa chọn chuẩn mực thường mang tính chủ quan và tuỳ theo nhận thức của kiểm toán viên. Chuẩn mực có thể là các tiêu chuẩn kỹ thuật, tỷ suất bình quân ngành, hay một tiêu chuẩn nào đó.
Loại hình kiểm toán này thường được thực hiện bởi các kiểm toán viên nội bộ, nhưng cũng có thể do kiểm toán viên nhà nước hay kiểm toán viên độc lập tiến
hành. Kết quả hoạt động chủ yếu để phục vụ cho lợi ích của bản thân đơn vị.
( Kiểm toán tuân thủ
Là việc kiểm tra nhằm đánh giá mức độ chấp hành pháp luật, hay một văn bản, một quy định nào đó của đơn vị.
Đối tượng của loại hình này rất đa dạng, cụ thể có thể bao gồm:
- Kiểm tra tính tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính kế toán, chế độ quản lý của Nhà nước và tình hình chấp hành các chính sách, quyết định, nghị quyết, quy chế của Hội đồng quản trị, của Ban giám đốc.
- Kiểm tra tính tuân thủ các quy định về nguyên tắc, quy trình nghiệp vụ, thủ tục quản lý của toàn bộ cũng như của từng khâu công việc, của từng bộ phận trong hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Kiểm tra sự chấp hành các nguyên tắc, các chính sách, các chuẩn mực kế toán từ khâu lập chứng từ, vận dụng hệ thống tài khoản, ghi sổ kế toán, tổng hợp thông tin và trình bày báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị đến lưu trữ tài liệu kế toán.
Chuẩn mực dùng để đánh giá là các văn bản có liên quan, ví dụ như luật thuế, các văn bản pháp quy, các nội quy, các hợp đồng…
Kiểm toán tuân thủ có thể được thực hiện bởi các kiểm toán viên nội bộ, kiểm toán viên Nhà nước, hay kiểm toán viên độc lập. Kết quả kiểm toán tuân thủ dùng để phục vụ cho các cấp thẩm quyền có liên quan.
( Kiểm toán báo cáo tài chính
Kiểm toán báo cáo tài chính là loại kiểm toán nhằm kiểm tra và xác nhận về tính trung thực và hợp lý của báo cáo tài chính cũng như xem xét báo cáo tài chính có phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán và yêu cầu của luật pháp hay không. Đây là loại hình kiểm toán xuất hiện sớm và khá phổ biến. Khi thực hiện kiểm toán, nội dung cơ bản bao gồm: Kiểm tra và xác nhận tính kịp thời, đầy đủ, khách quan và tin cậy của các báo cáo tài chính trước khi ký duyệt và công bố; Kiểm tra và đánh giá các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị và đưa ra những kiến nghị và tư vấn cần thiết cho hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo sự hợp lý, hiệu quả.
Nếu kiểm toán tuân thủ sử dụng các văn bản làm chuẩn mực để đánh giá thì kiểm toán báo cáo tài chính lấy các chuẩn mực kế toán hay chế độ kế toán hiện hành làm thước đo chủ yếu.
Kiểm toán báo cáo tài chính thường được thực hiện bởi các kiểm toán viên độc lập, và kết quả kiểm toán để phục vụ cho đơn vị, Nhà nước và các bên thứ 3, trong đó chủ yếu cho các nhà đầu tư, ngân hàng, nhà cung cấp, các cổ đông…
Trong thực tế kiểm toán báo cáo tài chính là hoạt động được tiến hành chủ yếu. Người ta ban hành rất nhiều các quy định, hướng dẫn việc thực hành kỹ thuật kiểm toán này. Việc thực hiện các loại kiểm toán hoạt động và kiểm toán tuân thủ chủ yếu là dựa vào kỹ thuật kiểm toán của loại kiểm toán báo cáo tài chính.
1.1.4.2 Phân loại theo chủ thể tiến hành
Căn cứ theo chủ thể tiến hành có thể chia công việc kiểm toán thành ba loại:
( Kiểm toán Nhà nước
Là công việc kiểm toán do cơ quan kiểm toán Nhà nước tiến hành. Kiểm toán Nhà nước chủ yếu tiến hành các cuộc kiểm toán tuân thủ, xem xét việc chấp hành các chính sách, luật lệ, chế độ của Nhà nước và đánh giá sự hữu hiệu, hiệu quả hoạt động tại các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước. Cơ quan kiểm toán Nhà nước là một tổ chức trong bộ máy quản lý của Nhà nước. Kiểm toán viên Nhà nước là các viên chức Nhà nước.
Kiểm toán Nhà nước nhận xét, đánh giá và xác nhận việc chấp hành chính sách, chế độ tài chính, kế toán ở các đơn vị. Bên cạnh đó, kiểm toán Nhà nước còn có quyền góp ý và yêu cầu các đơn vị kiểm toán sữa chữa những sai phạm và kiến nghị với cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm, đề xuất với Chính phủ những sữa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính, kế toán cần thiết.
( Kiểm toán độc lập
Là hoạt động kiểm toán được tiến hành bởi các kiểm toán viên độc lập thuộc những tổ chức kiểm toán độc lập. Họ thực hiện các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, và tuỳ theo yêu cầu của khách hàng, họ còn có thể thực hiện kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ và các dịch vụ tư vấn về kiểm toán, thuế, tài chính.
Do sự độc lập trong hoạt động nên kết quả kiểm toán của họ tạo được sự tin cậy đối với những người sử dụng, vì vậy trong nền kinh tế thị trường thì vai trò của họ trở nên rất cần thiết và khó có thể thay thế. Nói cách khác là tuy rằng báo cáo kiểm toán các báo cáo tài chính có thể được nhiều đối tượng sử dụng nhưng đối tượng sử dụng chính yếu là các bên thứ ba, và những người này thường chỉ tin cậy báo cáo tài chính đã được kiểm toán viên độc lập kiểm toán.
Trên thế giới, kiểm toán độc lập là loại hoạt động dịch vụ tư vấn dưới sự bảo hộ và thừa nhận của pháp luật, công việc kiểm toán độc lập càng ngày càng được quản lý chặt chẽ bởi các hiệp hội chuyên ngành về kiểm toán.
( Kiểm toán nội bộ
Là công việc kiểm toán do các KTV nội bộ của đơn vị tiến hành theo yêu cầu của giám đốc doanh nghiệp hoặc thủ trưởng đơn vị. KTNB có phạm vi thực hiện như sau: kiểm toán báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị của doanh nghiệp và các đơn vị thành viên; kiểm toán tuân thủ; kiểm toán hoạt động.
Để có thể hoạt động hữu hiệu thì bộ phận KTNB được tổ chức độc lập với các bộ phận khác trong đơn vị, thế nhưng sự độc lập này chỉ mang tính tương đối vì họ vẫn là nhân viên của đơn vị. Đây chính là sự khác biệt chủ yếu giữa KTNB và kiểm toán độc lập, và làm cho kết quả KTNB khó