Nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam

Abstract: Làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Sử dụng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2005-2010. Đề xuất định hướng, hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngâ n sách Nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020.

pdf47 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2786 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam Bùi Mạnh Cường Trường Đại học Kinh tế Luận án Tiến sĩ ngành: Kinh tế Chính trị; Mã số: 62.31.01.01 Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Thị Thái Hà Năm bảo vệ: 2012 Abstract: Làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Sử dụng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước để đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2005-2010. Đề xuất định hướng, hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước ở Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2020. Keywords: Kinh tế chính trị; Đầu tư; Kinh tế Việt Nam; Vốn ngân sách Content PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Đầu tư phát triển từ nguồn vốn NSNN có vai trò, vị trí, ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Các lý thuyết kinh tế từ trước đến nay đều khẳng định mối quan hệ hữu cơ giữa ĐTPT từ nguồn vốn NSNN với tăng trưởng, phát triển kinh tế. Lịch sử kinh tế thế giới là bằng chứng thể hiện tầm quan trọng của ĐTPT từ nguồn vốn NSNN đối với sự phát triển KTXH của các quốc gia, bao gồm các quốc gia có nền kinh tế KHH, kinh tế thị trường cũng như kinh tế chuyển đổi. Ở Việt Nam, từ 1945 - 1986, nền kinh tế vận hành theo cơ chế KHH. Nguồn vốn dành cho ĐTPT chủ yếu là vốn NSNN. Cùng với sự đổi mới đất nước, kể từ sau năm 1986, nguồn vốn dành cho ĐTPT ngày càng phong phú, đa dạng hơn: vốn NSNN, vốn của khu vực kinh tế ngoài nhà nước, vốn FDI,…Nền kinh tế Việt Nam đã dần dần chuyển đổi từ mô hình KHH sang mô hình kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường định hướng XHCN. Nói cách khác Việt Nam đang là một nền kinh tế chuyển đổi. Vốn NSNN dành cho ĐTPT trong nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam rất quan trọng. Thực tiễn qua hơn 25 năm đổi mới đất nước đã chứng minh điều đó. Mặt khác hoạt động ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam có những bối cảnh mới: Việt Nam tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới (năm 2006 tham gia WTO,..). Việt Nam hiện là nền kinh tế chuyển đổi trong hội nhập quốc tế có tính chất toàn cầu hoá. Nhìn chung, trong hơn 25 năm đối mới và hội nhập quốc tế, ĐTPT từ nguồn vốn NSNN của Việt Nam đã góp phần quan trọng vào việc phát triển KTQD, ổn định vĩ mô, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh và công bằng xã hội, ... 2 Tuy nhiên, hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi kinh tế và hội nhập quốc tế trong thời kỳ mới, đặc biệt là giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH. Những mục tiêu phát triển cơ bản Nhà nước đã đạt được mặc dù còn ở mức độ thấp, nhưng giá phải trả cho sự phát triển ấy quá lớn, thể hiện trên nhiều mặt. Từ năm 2011, Việt Nam quyết tâm tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó có tái cấu trúc đầu tư. Nâng cao hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam là một nhu cầu cấp thiết vừa có tính thời sự vừa có ý nghĩa thực tiễn, đòi hỏi phải có công trình nghiên cứu cập nhật. Từ đó tác giả lựa chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sỹ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu ĐTPT nói chung và ĐTPT từ nguồn vốn NSNN nói riêng là một vấn đề được các nhà nghiên cứu Việt Nam và quốc tế rất quan tâm. Nhìn chung các nghiên cứu này đều thống nhất rằng ở Việt Nam, ĐTPT có vai trò quan trọng đặc biệt và đã góp phần tích cực vào việc phát triển đất nước. Tăng trưởng kinh tế do yếu tố vốn là chủ yếu. Hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN còn hạn chế, phải tiếp tục được nâng cao. Tuy nhiên, đánh giá hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN một cách cụ thể và có luận cứ thì chưa thật rõ. Đối với hoạt động ĐTPT và ĐTPT từ nguồn vốn NSNN, theo tìm hiểu của tác giả tại một số thư viện lớn như Thư viện Quốc gia, Thư viện Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Kinh tế Quốc dân, Học viện Tài chính, Đại học Thương Mại, Học viện Ngân hàng, Đại học Luật Hà Nội, Đại học Giao thông Vận tải Hà Nội, Đại học Xây dựng Hà Nội,... hiện có một số công trình nghiên cứu ít nhiều có liên quan. Các công trình nghiên cứu này do cá nhân các nhà khoa học hoặc do các cơ quan QLNN nghiên cứu và công bố, với mức độ khác nhau, có sự liên quan ít/nhiều với ĐTPT đều có chung nhận định về hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam còn thấp và nguyên nhân là chủ trương đầu tư không đúng, thời gian thực hiện đầu tư chậm, thất thoát, lãng phí, tham nhũng, tiêu cực, đầu tư sai, đầu tư dàn trải, đầu tư khép kín,…Các công trình nói trên thường đề cập đến những khía cạnh, góc độ, phạm vi không gian và thời gian khác nhau, trên những vùng lãnh thổ khác nhau, theo các thành phần kinh tế,…cả về lý thuyết, thực tiễn, dự báo và định hướng liên quan đến ĐTPT. Tuy nhiên chưa thấy công trình nghiên cứu nào đề cập một cách hệ thống, đầy đủ cả về lý luận, đánh giá thực trạng, xây dựng hệ thống chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, môi trường, bền vững, đồng thời cập nhật tình hình mới với số liệu đến năm 2010 và chiến lược phát triển KTXH của Việt Nam giai đoạn 2011-2020 đã được thông qua. Các cơ quan nhà nước, bộ ngành ở Việt Nam như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Công thương,…cũng đã có một số báo cáo chuyên đề, báo cáo hàng năm về ĐTPT từ nguồn vốn NSNN trong đó đề cập đến hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở ngành, địa phương, vùng lãnh thổ, thành phần kinh tế,… theo phạm vi quản lý nhà nước. Một số tổ chức quốc tế đã công bố các báo cáo, báo cáo thường niên, nghiên cứu, đánh giá, ấn phẩm trong đó có đề cập đến ĐTPT của Việt Nam. Cụ thể như: WB công bố các báo cáo và các ấn phẩm về KTXH Việt Nam bao gồm cả đầu tư, ĐTPT, ĐTPT từ nguồn vốn NSNN (Báo cáo phát triển Việt Nam, Việt Nam quản lý chi tiêu công để tăng trưởng và giảm nghèo,…). UNDP trong phần dữ liệu về Việt Nam và các ấn phẩm định kỳ có công bố về đầu tư và ĐTPT của Việt Nam. ADB công bố các số liệu về ĐTPT và tình hình KTXH của Việt Nam làm căn cứ cho các nhà đầu tư tham khảo thêm về Việt Nam và công bố trên Web site, ấn phẩm, báo cáo thường niên của ADB. Diễn đàn kinh tế tài chính Việt - Pháp; Diễn đàn phát triển Việt Nam;… cũng đã có các báo cáo về ĐTPT và ĐTPT từ nguồn vốn NSNN. Một số nhà nghiên cứu trong nước về ĐTPT của nước ngoài hoặc một số nhà nghiên cứu của nước ngoài có những nghiên cứu về ĐTPT nói chung và ĐTPT từ nguồn vốn NSNN nói 3 riêng cả về lý luận và thực tiễn. Có thể kể đến như: Uxtionv A.N (Nga), nghiên cứu về thống kê đầu tư xây dựng; Xmirnhixki E.K (Nga) nghiên cứu về các chỉ tiêu kinh tế trong công nghiệp; … Tổng quan về lý luận, các lý thuyết kinh tế đã đề cập nhiều đến đầu tư, ĐTPT. Tuy nhiên, lý luận về ĐTPT từ nguồn vốn NSNN trong nền kinh tế chuyển đổi và hội nhập quốc tế, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam vẫn còn ít được đề cập. Tổng quan về thực tiễn, một số nền kinh tế phát triển vận hành theo cơ chế thị trường đã và đang ĐTPT từ nguồn vốn NSNN có hiệu quả. Ở Đông Á có Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,... Bên cạnh thành công đó cũng còn có không ít hạn chế cần phải tiếp tục khắc phục. Các quốc gia thực hiện theo cơ chế KHH hiện nay hầu như không còn tồn tại mà đã từng bước thực hiện chuyển sang KTTT với nhiều mức độ khác nhau. Thực tiễn cho thấy, có nền kinh tế đã chuyển đổi tương đối thành công, nhưng cũng có nền kinh tế chuyển đổi còn lúng túng, chưa hiệu quả. Các nước Đông Nam Á có vị trí địa lý gần với Việt Nam, trong ĐTPT cũng có những khía cạnh tương đồng cần phải nghiên cứu để rút ra bài học kinh nghiệm như Thái Lan, Malaysia, Singapore,…Trong nước, một số địa phương ĐTPT có hiệu quả; một số vùng kinh tế có nét riêng biệt trong ĐTPT. Các ngành kinh tế thực hiện ĐTPT với những đặc điểm riêng. Các đề tài nghiên cứu về thực tiễn ĐTPT đã xem xét, đánh giá, nhận xét, luận giải trên nhiều bình diện, phạm vi, mức độ, thời gian, không gian, bối cảnh,…và đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm từ thực tiễn. Tuy nhiên, hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam trong giai đoạn 2005-2010 chưa được xem xét hệ thống, cụ thể, toàn diện theo hệ thống các chỉ tiêu được xây dựng hợp lý và có thể áp dụng tính toán với các số liệu cụ thể. Bối cảnh kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi quan trọng và việc chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam đã có những thành tựu nhất định sau hơn 25 năm đổi mới trong điều kiện hội nhập có tính chất toàn cầu hoá. Định hướng phát triển kinh tế, Chiến lược phát triển KTXH Việt Nam 2011-2020 vừa mới được Việt Nam chính thức công bố. Do vậy, nghiên cứu về ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam hiện nay phải có những tiếp cận mới theo hướng hội nhập quốc tế và chuyển đổi kinh tế gắn với việc cập nhật các số liệu mới nhất. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Đánh giá hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam trong giai đoạn 2005-2010, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam trong giai đoạn 2011-2020. 3.2. Nhiệm vụ - Làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của ĐTPT từ nguồn vốn NSNN. - Xây dựng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp đánh giá hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN. - Sử dụng hệ thống chỉ tiêu và phương pháp đánh giá hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN để đánh giá hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2005-2010. - Đề xuất định hướng, hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước đến năm 2020. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tƣợng Thực trạng và hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2005-2010; hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020. 4.2. Phạm vi Thực trạng và hiệu quả hoạt động ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2005-2010, lấy số liệu thống kê hàng năm do Tổng cục Thống kê công bố làm trọng tâm nghiên cứu. Trên cơ sở đó, kết hợp với định hướng chiến lược phát triển KTXH của Việt 4 Nam, đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2011-2020. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Luận án sử dụng: - Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. - Các phương pháp cụ thể như: thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp, dự báo, biểu đồ, kịch bản tăng trưởng, phân tích hệ thống,… - Các phương pháp của tin học để phân tích, nghiên cứu và phần mềm ứng dụng để tính toán, so sánh, đánh giá hiệu quả ĐTPT. Tuỳ theo vấn đề cụ thể mà luận án sử dụng từng phương pháp riêng lẻ hoặc sử dụng tổng hợp các phương pháp để luận giải, đánh giá, làm sáng tỏ vấn đề. 6. Dự kiến những đóng góp mới của luận án Dự kiến luận án có những đóng góp chủ yếu sau: - Hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động ĐTPT từ nguồn vốn NSNN một cách đầy đủ, rõ ràng, cụ thể. - Tổng hợp, làm rõ cơ sở lý luận về hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN; - Phân tích, đánh giá, nhận xét để xây dựng cơ sở thực tiễn về ĐTPT từ nguồn vốn NSNN; - Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá và phương pháp đánh giá hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN toàn diện cả về định tính, định lượng, với tầm mức đánh giá cả về vi mô và vĩ mô trong nền kinh tế chuyển đổi. - Trên cơ sở hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN đã được xây dựng, áp dụng để phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam từ năm 2005-2010. Chỉ ra nguyên nhân làm hạn chế hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN của Việt Nam. - Đề xuất hệ thống các giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 trong điều kiện của nền kinh tế chuyển đổi và hội nhập quốc tế với mục tiêu CNH, HĐH đất nước. 7. Bố cục của luận án Ngoài các phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục các công trình đã công bố của tác giả và các phụ lục, luận án được chia thành 3 chương: Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về hiệu quả của ĐTPT từ nguồn vốn NSNN. Chương 2: Thực trạng hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam Chương 3: Định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ở Việt Nam CHƢƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN TỪ NGUỒN VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƢỚC 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƢ PHÁT TRIỂN 1.1.1. Đầu tƣ phát triển từ nguồn vốn ngân sách nhà nƣớc 1.1.1.1. Một số khái niệm cơ bản Từ các quan điểm trong các lý thuyết kinh tế, quan điểm của các nhà nghiên cứu cho thấy đầu tư là việc huy động một hoặc một số nguồn lực trong các nguồn lực sau: tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ và đưa ra để tiến hành các hoạt động cụ thể nào đó trong một khoảng thời gian dài hạn (từ 2 năm trở lên) với mục đích thu được các kết quả trong tương lai về tiền, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực lớn hơn nguồn lực bỏ ra theo một cách tính toán nào đó. 5 Có thể chia đầu tư làm 3 loại: đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư phát triển. Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó nhà đầu tư bỏ tiền ra cho vay, mua các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất. Đầu tư thương mại là loại đầu tư mà nhà đầu tư bỏ tiền mua hàng hóa và sau đó bán lại với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận. Đầu tư tài chính và đầu tư thương mại không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của người đầu tư. ĐTPT là việc đem một khoản vốn bằng tiền để thực hiện hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho XH, nhằm mục đích phát triển về TSCĐ, nhân lực, sản phẩm KHCN,… Vốn dành cho ĐTPT phân chia theo thành phần kinh tế bao gồm kinh tế nhà nước; kinh tế ngoài nhà nước; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Vốn ĐTPT của khu vực kinh tế nhà nước có: NSNN cấp phát dành cho ĐTPT; vốn vay (tín dụng ĐTPT của nhà nước); vốn ĐTPT của DNNN có nguồn gốc từ NSNN. Luận án chỉ nghiên cứu hiệu quả ĐTPT từ nguồn vốn NSNN bao gồm vốn NSNN cấp phát; vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước và vốn ĐTPT của DNNN có nguồn gốc từ NSNN. 1.1.1.2. Phân loại Tùy theo quan niệm, có thể phân loại ĐTPT từ nguồn vốn NSNN. Theo thành phần kinh tế có ĐTPT từ nguồn vốn NSNN (kinh tế nhà nước); ĐTPT từ nguồn vốn ngoài nhà nước (kinh tế ngoài nhà nước: kinh tế tập thể; kinh tế tư nhân; kinh tế cá thể); ĐTPT từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài (FDI). Theo khu vực kinh tế có ĐTPT từ NSNN trong khu vực nông nghiệp; công nghiệp; thương mại, dịch vụ. Theo ngành kinh tế có ĐTPT từ NSNN trong ngành công nghiệp chế biến; dệt may; điện lực; thuỷ sản,…Theo vùng lãnh thổ bao gồm đơn vị hành chính (tỉnh, thành phố,…); vùng lãnh thổ (Tây Nguyên, Bắc Trung Bộ,…); khu công nghiệp, khu kinh tế, … 1.1.1.3. Bản chất của ĐTPT từ nguồn vốn NSNN Bản chất của ĐTPT trước hết là hoạt động đầu tư, nghĩa là nhà đầu tư bỏ ra một khoản vốn nhằm mục đích thu được lợi ích. ĐTPT phải nhằm tới mục đích phát triển, bao gồm cả phát triển tài sản vật chất, tài sản trí tuệ, nguồn nhân lực. Về bản chất, ĐTPT khác với các loại đầu tư khác ở chỗ là ĐTPT trực tiếp làm tăng tài sản thực cho người đầu tư, còn các loại đầu tư khác chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho người đầu tư mà không trực tiếp làm tăng tài sản thực cho người đầu tư. Như vậy ĐTPT có bản chất là tìm kiếm lợi ích và vì mục đích phát triển. 1.1.1.4. Vai trò ĐTPT từ nguồn vốn NSNN - ĐTPT từ NSNN có vai trò quan trọng đặc biệt trong việc đảm bảo duy trì sự tồn tại, hoạt động và phát triển của bộ máy nhà nước. - ĐTPT từ NSNN có vai trò thúc đẩy, định hướng, chi phối, dẫn dắt, điều chỉnh,… trong hoạt động ĐTPT nói chung của toàn bộ nền kinh tế. - ĐTPT từ NSNN có vai trò to lớn trong việc thực hiện các nhiệm vụ KTXH của Nhà nước như đảm bảo nền kinh tế hoạt động có hiệu quả và đúng định hướng, thực hiện công bằng xã hội, mục tiêu tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô,… 1.1.1.5. Đặc điểm ĐTPT từ nguồn vốn NSNN - ĐTPT từ NSNN thường hướng đến những công trình dự án quan tâm đến hiệu quả xã hội nhiều hơn là hiệu quả kinh tế. Nói cách khác mục đích của các dự án ĐTPT từ nguồn vốn NSNN hướng đến tối đa hoá phúc lợi xã hội nhiều hơn là chú ý đến tối đa hoá lợi ích kinh tế. - ĐTPT từ nguồn vốn NSNN là sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường nhằm khắc phục yếu kém, khuyết tật và sự thất bại của thị trường. - Chi ĐTPT từ nguồn vốn NSNN là khoản chi lớn của NSNN nhưng không có tính ổn định, chi theo ngân sách hàng năm, bị ảnh hưởng bởi yếu tố nhiệm kỳ nên dễ xảy ra dàn trải, manh mún, nợ công, quyết định đầu tư vội vàng, đầu tư sai, đầu tư hình thức, đầu tư theo phong trào, thiếu hiệu quả đích thực. 6 - Chi ĐTPT từ nguồn vốn NSNN mang tính chất chi cho tích luỹ. Phạm vi và mức độ chi luôn gắn liền với việc thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển KTXH của Nhà nước trong từng thời kỳ. - ĐTPT từ nguồn vốn NSNN ít có tính cạnh tranh trong việc thực hiện mà chủ yếu cạnh tranh qua cấp phát, xin cho, vì vậy dễ dẫn đến chất lượng hiệu quả thấp kém, dễ xảy ra tiêu cực, tham nhũng, thất thoát. - ĐTPT từ nguồn vốn NSNN có chủ sở hữu tài sản là Nhà nước nhưng đơn vị thực hiện, đơn vị sử dụng, hưởng lợi và chủ sở hữu thường không phải là một nên trách nhiệm đối với việc đầu tư thường không chặt chẽ, mờ nhạt, chung chung. - Việc quyết định chủ trương đầu tư từ nguồn vốn NSNN thường theo ý kiến đề xuất, tham mưu của cơ quan kế hoạch, tài chính,...hoặc phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người có quyền quyết định đầu tư mà không xuất phát từ thị trường, nhu cầu đích thực nội tại của đầu tư nên người có thẩm quyền dễ có quyết định chủ quan, duy ý chí, đầu tư sai, không có hiệu quả, lãng phí, vô trách nhiệm hoặc vụ lợi. - Do cơ chế xin cho, cấp phát là chủ yếu trong phân bổ nguồn lực ĐTPT từ nguồn vốn NSNN nên dễ xảy ra tình trạng chia đều bình quân, dàn trải, manh mún, lợi dụng, ứng trước vốn, thiếu quy hoạch hoặc điều chỉnh quy hoạch chủ quan dẫn đến thiếu hiệu quả toàn diện. - Sự phân cấp mạnh cho chính quyền địa phương trong quyết định chủ trương đầu tư tăng thêm tính chủ động tích cực trong ĐTPT, nhưng cũng tiềm ẩn tình trạng đầu tư lộn xộn, chồng chéo, khó kiểm soát, thiếu quy hoạch chung. - Quyết định đầu tư của Nhà nước thường do một hoặc một số cán bộ có chức có quyền nhưng không phải là chủ sở hữu của tài sản đem ra đầu tư, việc giải ngân hàng năm, cán bộ làm theo nhiệm kỳ, nên nếu ý thức trách nhiệm kém dễ dẫn đến chủ trương đầu tư không đúng, vô trách nhiệm, thiếu quy hoạch, kế hoạch hoặc tự phá vỡ quy hoạch, kế hoạch, nợ đọng, vay vốn tràn lan làm Nhà nước thâm nợ. 1.1.1.6. Mục tiêu ĐTPT từ nguồn vốn NSNN Mục tiêu của ĐTPT là nhằm tìm kiếm lợi ích và phát triển. Lợi ích đó bao gồm lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội. Lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với đảm bảo môi trường. Người đầu tư bỏ vốn là kỳ vọng đạt được lợi ích nhất định. Nhà nước quan tâm nhiều hơn đến lợi ích xã hội và đảm bảo môi trường, phát triển bền vững, còn các nhà đầu tư khác quan tâm nhiều hơn đến lợi ích kinh tế. Do vậy, trong ĐTPT, Nhà nước thường hướng tới tối đa hoá phúc lợi XH, còn các nhà đầu tư khác hướng tới tối đa hoá lợi ích kinh tế. Như vậy, mục tiêu của ĐTPT từ nguồn vốn NSNN là tối đa hóa lợi ích kinh tế, tối đa hóa phúc lợi xã hội và đảm bảo môi trường trong sự quan hệ chặt chẽ với phát triển bền vững. ĐTPT từ nguồn vốn NSNN là hoạt động ĐTPT của Nhà nước nhằm mục đích phát triển, cân đối vĩ mô, khắc phục khuyết tật của thị trường, đảm bảo an sinh XH, hướng tới công bằng bình đẳng, SX hàng hóa công… 1.1.1.7. Mối quan hệ giữa ĐTPT từ NSNN với tăng trƣởng kinh tế, phát triển kinh tế, phát triển bền vững ĐTPT từ nguồn vốn NSNN là hoạt động ĐTPT nên có quan hệ chặt ch
Luận văn liên quan