Nâng cao hiệu quả thẩm định cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn TP Hồ Chí Minh

Công tác thẩm định cho vay đối với DNVVN của các NHTM vốn dĩ đã đóng một vai trò quan trọng, trong bối cảnh hiện nay lại càng đặc biệt quan trọng hơn vì nền kinh tế đang khó khăn, dẫn đến việc cho vay sẽ rủi ro cao hơn. Lúc này, để có thể quyết định tài trợ vốn cho các DN đòi hỏi việc thẩm định hồ sơ vay phải chặt chẽ, kỹ càng hơn và yêu cầu đáp ứng được các chỉ tiêu cao hơn về hiệu quả tài chính của phương án, năng lực, pháp lý và uy tín của DN. Nếu công tác thẩm định không tốt, sẽ dễ dẫn đến các quyết định cho vay không hiệu quả, dẫn tới không thu hồi được vốn vay và điều này không chỉ ảnh hưởng xấu đến hoạt động của bản thân ngân hàng đó mà còn ảnh hưởng tới mọi mặt của nền kinh tế nói chung. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tôi đã chọn đề tài : “Nâng cao hiệu quả thẩm định cho vay DNVVN tại các NHTM trên địa bàn TPHCM”

pdf85 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2590 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nâng cao hiệu quả thẩm định cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn TP Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn Nâng cao hiệu qủa thẩm định cho vay DNVVN tại các NHTM trên địa bàn TPHCM - 1 - LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài : Công tác thẩm định cho vay đối với DNVVN của các NHTM vốn dĩ đã đóng một vai trò quan trọng, trong bối cảnh hiện nay lại càng đặc biệt quan trọng hơn vì nền kinh tế đang khó khăn, dẫn đến việc cho vay sẽ rủi ro cao hơn. Lúc này, để có thể quyết định tài trợ vốn cho các DN đòi hỏi việc thẩm định hồ sơ vay phải chặt chẽ, kỹ càng hơn và yêu cầu đáp ứng được các chỉ tiêu cao hơn về hiệu quả tài chính của phương án, năng lực, pháp lý và uy tín của DN. Nếu công tác thẩm định không tốt, sẽ dễ dẫn đến các quyết định cho vay không hiệu quả, dẫn tới không thu hồi được vốn vay và điều này không chỉ ảnh hưởng xấu đến hoạt động của bản thân ngân hàng đó mà còn ảnh hưởng tới mọi mặt của nền kinh tế nói chung. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tôi đã chọn đề tài : “Nâng cao hiệu quả thẩm định cho vay DNVVN tại các NHTM trên địa bàn TPHCM ”. 2. Mục tiêu nghiên cứu : Trên cơ sở quy định, nội dung thẩm định tín dụng khách hàng DN, xây dựng khung phân tích và đánh giá hồ sơ vay, hệ thống các nội dung thẩm định phục vụ cho cán bộ thẩm định tại ngân hàng có chuẩn mực để đánh giá các hồ sơ vay. Đồng thời, căn cứ vào thực trạng công tác thẩm định cho vay DNVVN tại các NHTM trên địa bàn TP.HCM hiện nay, luận văn đưa ra một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định cho vay tại các NHTM. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu : - Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tình hình thực tế của công tác thẩm định cho vay DNVVN tại các NHTM VN trên địa bàn TP.HCM - Phạm vi nghiên cứu : - 2 - Nghiên cứu một số nội dung cơ bản của hồ sơ vay vốn, các chỉ tiêu phân tích định tính, định lượng trong thẩm định hồ sơ vay vốn của NHTM VN tại TPHCM, không nghiên cứu Ngân hàng liên doanh, Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Nghiên cứu thực trạng công tác thẩm định cho vay DNVVN trong các NHTM hiện nay. Nghiên cứu các giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định cho vay trong các NHTM. 4. Phương pháp nghiên cứu : Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở tổng hợp một số các phương pháp nghiên cứu như : Phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá; đối chiếu với công tác thẩm định cho vay DNVVN tại các NHTM để đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện công tác thẩm định cho vay trong các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn TP.HCM. 5. Kết cấu luận văn : Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương: - Chương 1 : Tổng quát về thẩm định cho vay DNVVN. - Chương 2 : Thực trạng công tác thẩm định cho vay DNVVN tại các NHTM trên địa bàn TP.HCM hiện nay. - Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thẩm định cho vay DNVVN tại các NHTM trên địa bàn TP.HCM hiện nay. Do thời gian và khả năng nghiên cứu của bản thân còn hạn chế, luận văn khó tránh khỏi một số sơ sót nhất định. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quí thầy cô, bạn bè, đồng thời xin được trân trọng gởi đến quí thầy, quí cô lời cảm ơn chân thành. - 3 - CHƯƠNG 1 TỔNG QUÁT VỀ THẨM ĐỊNH CHO VAY DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1 Tổng quát về DNVVN : 1.1 .1 Thế nào là DNVVN : Theo Wikipedia1, DNVVN là những DN có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. Theo tiêu chí của Nhóm ngân hàng thế giới, DNVVN có thể chia thành 3 loại căn cứ vào số lượng lao động, đó là DN siêu nhỏ nếu có số lượng lao động dưới 10 người, DN nhỏ nếu từ 10 đến dưới 50 người và DN vừa nếu từ 50 đến 300 người. Việc xây dựng các tiêu chí để phân định DNVVN có ý nghĩa quan trọng vì qua đó, làm cơ sở theo dõi và phân tích được các số liệu thống kê về tình hình hoạt động của DNVVN, làm nền tảng cho việc hoạch định chiến lược và tìm ra các giải pháp nhằm hỗ trợ cho loại hình doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả. Tuy nhiên trên thực tế, không có một khuôn mẫu thống nhất về tiêu chí cũng như tiêu chuẩn giữa các quốc gia, do có sự khác nhau về trình độ và điều kiện kinh tế xã hội ở từng nước. Ngay cả trong mỗi nước, việc phân loại các DNVVN giữa các thời kỳ, các ngành nghề, các địa phương cũng có sự khác nhau. Thậm chí, nhiều dự án tài trợ cho các DNVVN cũng có các hình thức phân loại khác nhau, khác cả với qui định của Chính phủ. Hiện nay, có hai nhóm tiêu chí phổ biến dùng để phân loại các DNVVN: 1 Wikipedia là bách khoa toàn thư nội dung mở trên internet - 4 - Tiêu chí định tính: tiêu chí này dựa trên các đặc trưng cơ bản của DNVVN như trình độ chuyên môn hoá, mức độ tự động hóa... Ưu điểm của chỉ tiêu này là phản ánh đúng thực chất DNVVN nhưng lại khó xác định chính xác trên thực tế. Do đó, tiêu chí này thường được sử dụng để tham khảo, bổ sung cho tiêu chí định lượng, ít được sử dụng làm căn cứ để phân loại. Tiêu chí định lượng: thường được căn cứ vào các tiêu thức như số lượng lao động, vốn hay tài sản, doanh thu, lợi nhuận để phân loại. Tùy vào tình hình thực tế mà các tiêu thức sẽ được lựa chọn như: số lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thực tế, lao động thường xuyên. Vốn hay tài sản có thể là vốn hay giá trị tổng tài sản, tài sản cố định hay giá trị tài sản còn lại. Doanh thu có thể là doanh thu trong một năm, giá trị gia tăng trong một năm. Trên thế giới các tiêu thức định lượng được sử dụng rất đa dạng, số lượng tiêu thức được dùng có thể là 1, hoặc 2 và tối đa là 3. Đa số các quốc gia đều sử dụng tiêu thức số lao động. Tuy nhiên, việc phân loại chỉ mang tính tương đối, do quá trình phân loại còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Trình độ phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Các quốc gia càng phát triển, DN thường có trình độ kỹ thuật chuyên môn hóa cao thì lượng lao động có xu hướng ít, vốn hay giá trị tài sản lại thường cao hơn các DN tại các nước ít phát triển. Tính chất, đặc điểm của ngành nghề, trình độ phát triển của DN: có những ngành thâm dụng về vốn như điện tử, vận tải trong khi một số ngành lại thâm dụng về lao động như may mặc, gốm xứ... Tính phân vùng: do có sự khác biệt giữa các vùng trong một quốc gia như giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi hải đảo và đồng bằng.... - 5 - Mục đích của việc phân loại: do việc phân loại để có chính sách hỗ trợ về thuế (chú trọng vào tiêu thức lợi nhuận) sẽ khác với việc phân loại nhằm mục đích khuyến khích đổi mới công nghệ ( chú trọng tiêu thức số lao động ), hay là phục vụ cho một mục đích mang tính xã hội của Chính phủ như giải quyết việc làm. Từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế: kinh tế càng phát triển, các tiêu chuẩn về DNVVN cũng thay đổi theo cho phù hợp với thực tế. Mỗi một yếu tố đều có một ý nghĩa, tùy theo quan điểm và điều kiện cụ thể mà mỗi quốc gia có một sự phân loại riêng. 1.1.2 DNVVN theo tiêu chí phân loại tại một số nước trên thế giới: Bảng 1.1: Các tiêu thức áp dụng để xác định DNVVN ở một số quốc gia hiện nay. QUỐC GIA CÁC TIÊU THỨC ÁP DỤNG SỐ LAO ĐỘNG TỔNG SỐ VỐN TÀI SẢN DOANH THU ÚC < 500 trong CN & DV CANADA < 500 cho cả CN & DV < 20 triệu CAD MĨ < 500 MEXICO < 250 < 7 triệu USD EU < 250 NHẬT < 300 trong ngành khác hoặc < 100 trong bán buôn hoặc < 50 trong bán lẻ hoặc < 100 triệu yên < 30 triệu yên < 10 triệu yên - 6 - KOREA < 300 trong chế tạo, khai thác, xây dựng và < 20 trong thương mại và 0.6 triệu USD < 0.5 triệu USD/năm (nếu bán lẻ) và < 0.25 triệu USD/năm (nếu bán buôn) HONGKONG < 100 trong DN và 50 trong DV PHILIPINE - DN nhỏ : 10-99 -DN vừa: 100 - 199 1.5-15triệu Peso 15-60 triệu Peso SINGAPORE < 100 < 500 triệu SGD MYANMAR < 100 MALAYSIA <150 <25 triệu Ringit THAILAND - DN nhỏ :< 50 - DN vừa :50-200 < 20 triệu Bath 20-100 triệu Bath INDONESIA < 100 CHINA - DN nhỏ: 50-100; - DN vừa : 101-500 - 7 - [Nguồn: - Sách tài chính hỗ trợ các DNVVN - APEC website me.or g ] Qua số liệu bảng trên ta thấy, đa số các nước trên thế giới đều chọn hai tiêu thức chủ yếu là số lượng lao động và lượng vốn sản xuất kinh doanh như là hai thước đo chính để phân biệt qui mô DNVVN. Độ lớn trong từng tiêu thức của mỗi quốc gia cũng không giống nhau, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể và đặc điểm riêng có của từng nước. 1.1.3 DNVVN tại Việt Nam: 1.1.3.1 Tiêu chí xác định DNVVN tại Việt Nam : Theo Điều 3, Nghị định số 90/2001/NĐ-CP về việc trợ giúp DNVVN ngày 23/11/2001 do Thủ tướng Chính phủ ban hành, đã định nghĩa DNVVN như sau: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động bình quân hàng năm không quá 300 người” . Đây chính là cơ sở pháp lý chính thức hiện nay để ta có thể tiến hành phân loại DNVVN. 1.1.3.2 Đặc điểm các DNVVN tại Việt Nam : Từ khi Luật DN có hiệu lực thi hành (01/01/2000) cho tới nay thì số DN nói chung và DNVVN nói riêng tăng rất nhanh, cụ thể như sau : - 8 - Bảng 1.2 : Số lượng DN và DNVVN tại Việt Nam qua các năm. Đơn vị : doanh nghiệp 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tháng 6/2008 DNVVN theo tiêu chí về vốn (< 10 tỷ ) 36.305 44.670 54.216 61.977 79.420 98.232 114.340 307.388 DNVVN theo tiêu chí về số lao động ( <300 lao động ) 39.897 49.062 59.853 68.687 88.222 109.336 127.600 328.207 Tổng số DN 42.288 51.680 62.908 72.012 91.756 112.950 131.332 349.305 ( Nguồn : Báo cáo thường niên DNVVN VN năm 2008 của Bộ KH&ĐT ) Qua thống kê trên cho thấy, đến cuối năm 2006 số DN tại VN đã tăng 311% so với năm 2000, DNVVN theo tiêu chí về vốn tăng 315% và theo tiêu chí về số lao động là 320%. Đồng thời, số lượng DNVVN cũng chiếm tỷ lệ áp đảo trong tổng số DN với 97% ( nếu theo tiêu chí lao động ) và 87% ( theo tiêu chí về vốn). Mới đây, theo số liệu báo cáo của NHNN gửi Thủ tướng Chính phủ ngày 29/09/2008 thì tính đến tháng 06/2008, đã có 349.305 DN đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký trên 1.389.000 tỷ đồng, trong đó, khoảng 93,96% DN là DNVVN ( theo tiêu chí lao động ), và 88% DN là DNVVN ( theo tiêu chí về vốn). TPHCM tiếp tục là địa phương dẫn đầu trong cả nước có số lượng DN đăng ký kinh doanh nhiều nhất, chiếm gần 30% tổng số DN đăng ký kinh doanh trong cả nước đến cuối năm 2007, với 17.313 DN trên tổng số 58.196 DN và con - 9 - số đó tiếp tục tăng cao trong quý 1/2009 với 4.050 DN thành lập mới, bất kể nền kinh tế đang trong giai đoạn suy thoái như hiện nay. Việc số lượng các DN ngày một tăng là một tín hiệu đáng mừng, tuy nhiên bên cạnh đó, chất lượng của DN vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều DN ra đời nhưng có khả năng cạnh tranh rất thấp, thậm chí không thể hoạt động. Trong bối cảnh VN hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng và tình hình kinh tế thế giới cũng như VN đang trải qua giai đoạn khó khăn, DNVVN VN đang đứng trước thách thức rất lớn dưới áp lực cạnh tranh của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia. Trong khi đó, bản thân các DNVVN của VN hiện nay tuy đã có những cải tiến, đổi mới nhất định để đáp ứng với tình hình mới, nhưng vẫn đang tồn tại những hạn chế vốn có của mình. Các hạn chế đó là : - Hạn chế về vốn: Vốn luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các DNVVN nước ta, rất nhiều doanh nghiệp hiện nay thiếu vốn. Mặc dù đã có những chuyển biến lớn về vốn của DNVVN nếu như so số vốn đăng ký kinh doanh bình quân của năm 2006 là 7 tỷ đồng với năm 2000 là 962 triệu đồng, nhưng với áp lực cạnh tranh ngày càng cao, số vốn đó ( nếu thực tế DN góp đúng như đăng ký ) cũng khó có thể đáp ứng được nhu cầu phát triển của đơn vị. Do thiếu vốn, dẫn đến hàng loạt các khó khăn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh và sự tồn tại của DN như : không có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, phát triển và duy trì thị phần, khả năng đầu tư vào phương tiện kỹ thuật, trang bị, cải tiến máy móc thiết bị hiện đại để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm bị hạn chế, khó thu hút được lực lượng lao động và nhân sự có trình độ, tay nghề cao. - 10 - Mặc dù hiện nay các DNVVN có thể khai thác và huy động vốn từ ba nguồn chính thức là thị trường chứng khoán, ngân hàng và các chương trình hỗ trợ phát triển của Chính phủ từ NSNN như Quỹ bảo lãnh tín dụng, Quỹ hỗ trợ phát triển, nhưng việc tiếp cận các nguồn tài chính trên đều gặp khó khăn. Quỹ bảo lãnh tín dụng hiện có 9 quỹ, nhưng chỉ hoạt động có 3 quỹ, vừa yếu lại vừa thiếu. Huy động từ thị trường chứng khoán thì đòi hỏi nhiều điều kiện mà nhiều DN khó có thể đáp ứng như hoạt động có lãi nhiều năm liền, có uy tín trên thị trường, báo cáo tài chính có kiểm toán, phải là công ty cổ phần đại chúng có quy mô lớn. Vay vốn từ ngân hàng thì yêu cầu về tài sản thế chấp, thủ tục rườm rà, số tiền vay và thời gian vay thường không đáp ứng được nhu cầu của DN…Đặc biệt trong năm 2008 vừa qua, các DN còn phải hứng chịu mức lãi suất cho vay rất cao và không phải DN nào cũng được vay do chính sách thắt chặt tiền tệ của Chính phủ để phục vụ mục tiêu kiềm chế lạm phát. Chính vì vậy, để có vốn duy trì hoạt động kinh doanh, các DN buộc phải vay mượn từ kênh tài chính phi chính thức, đặc biệt là từ bạn bè, người thân và thậm chí chấp nhận vay tín dụng nặng lãi với lãi suất rất cao. Theo điều tra của Cục Phát triển DNVVN thuộc Bộ Kế hoạch& Đầu tư năm 2007, chỉ có 32,38% DNVVN có khả năng tiếp cận được các nguồn vốn của các ngân hàng; 35,24% DN khó tiếp cận và 32,38% DN không tiếp cận được. Mới đây nhất, theo số liệu báo cáo nhanh về tình hình hoạt động của các DNVVN 6 tháng đầu năm 2008 do Viện Phát triển DN thuộc VCCI cũng cho thấy có 90,2% DNVVN có nhu cầu vay vốn ngân hàng, nhưng chỉ có 10,5% DN thỏa mãn được 100% nhu cầu. Đây là một thực trạng trái chiều khi mà ngày càng nhiều ngân hàng chú trọng hơn trong việc cho vay DNVVN, nhưng các DNVVN vẫn khó có thể tiếp cận được vốn vay ngân hàng do các hạn chế vốn có của mình. - 11 - - Trình độ lao động và quản lý còn thấp : Trình độ và tay nghề của người lao động và đội ngũ quản lý trong các DNVVN cũng là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay. Một nghiên cứu vào tháng 03/2008 của Bộ KH&ĐT đối với 63.000 DN trên cả nước cho thấy 43% chủ DN có trình độ trung học trở xuống, 63% DN không tuyển dụng được người tài, 55% DN gặp khó khăn trong việc giữ chân người giỏi. Tình trạng trên là do nguồn vốn hạn hẹp, các DNVVN khó có thể chiêu mộ được lực lượng lao động và quản lý giỏi, có tay nghề. Lực lượng lao động chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo tay nghề và thiếu kỹ năng, đồng thời cũng ít được chủ doanh nghiệp quan tâm đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao tay nghề, trình độ cho lao động trong khi chất lượng nguồn lao động có ý nghĩa quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của DN. Bản thân các lãnh đạo của DN cũng có trình độ rất hạn chế. Đội ngũ chủ DN, Giám đốc, cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý. Số lượng DNVVN có chủ DN, giám đốc giỏi, chuyên môn cao và năng lực quản lý tốt chưa nhiều. Một bộ phận lớn các chủ DN, Giám đốc chưa được đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế xã hội và kỹ năng quản trị kinh doanh, từ đó, dẫn đến khuynh hướng phổ biến là các DN hoạt động quản lý chủ yếu trên kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, thiếu kiến thức dẫn đến kinh doanh dễ phát sinh rủi ro. - Kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu : Công nghệ là yếu tố quyết định đến năng suất, chất lượng của sản phẩm, giúp các doanh nghiệp có thể cạnh tranh được trên thị trường. Với việc hội nhập ngày càng sâu rộng vào kinh tế thế giới, nhìn chung, trong những năm qua các DNVVN ở nước ta đã có sự đổi mới công nghệ ở mức độ nhất định. Tuy nhiên, do - 12 - nguồn vốn tài chính bị giới hạn và sự nhìn nhận tầm quan trọng của khoa học công nghệ còn hạn chế, dẫn đến các doanh nghiệp chưa thể tự mình đổi mới cũng như áp dụng mạnh mẽ công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Theo báo cáo mới đây của Cục phát triển DN ( thuộc Bộ KH &ĐT ) tháng 04/2009 cho thấy, vẫn còn 80% số lượng DNVVN không có chiến lược đầu tư cho khoa học công nghệ, và hầu hết các DNVVN hiện đang sử dụng công nghệ lạc hậu 3-4 thập kỷ so với thế giới, năng lực nghiên cứu rất hạn chế, chỉ có 0,1% doanh thu hằng năm của DN được dành để đổi mới công nghệ thiết bị. Ngoài ra, báo cáo cũng cho biết việc nhập khẩu công nghệ hằng năm của các DN là dưới 10% tổng kim ngạch nhập khẩu, chỉ bằng ¼ so với các nước phát triển. Bên cạnh nguồn vốn ít nên ngại đổi mới, nhiều DN không hiểu công nghệ nào đã có và làm thế nào để tiếp cận, áp dụng công nghệ vào sản xuất do chưa thực sự xem yếu tố công nghệ là yếu tố cạnh tranh, tồn tại sống còn của DN. - Thiếu thông tin thị trường : Một trong những yếu tố làm cho khả năng cạnh tranh của DNVVN bị hạn chế là tình trạng thiếu thông tin thị trường về sản phẩm, thị trường công nghệ, máy móc thiết bị. Vì vậy, sản phẩm làm ra có mẫu mã, kiểu dáng không thật hấp dẫn, chất lượng hạn chế, dẫn đến khó cạnh tranh do không đáp ứng được nhu cầu của thị trường và DN khó có thể chủ động thay đổi chiến lược kinh doanh khi thị trường thay đổi. Việc thiếu thông tin thị trường một phần xuất phát từ bản thân DN và một phần do chưa nhận được sự hỗ trợ tích cực từ các cơ quan chức trách của Chính phủ. - 13 - Ngày nay, việc nắm bắt các thông tin thị trường không chỉ dựa vào công ty tư vấn, nghiên cứu tìm hiểu thị trường mà còn có thể thực hiện dưới nhiều hình thức rất đa dạng thông qua CNTT.
Luận văn liên quan