Đề số 5: Nêu và phân tích các nguyên tắc đánh thuế.
Bài làm:
I. Mở bài:
Thuế là công cụ chủ yếu để tạo lập nguồn ngân sách nhà nước, tuy nhiên việc tiến hành thu thuế như thế nào để lợi ích của cả hai bên chủ thể (người nộp thuế và nhà nước) đều không bị ảnh hưởng là không hề đơn giản. Do đó, khi đánh thuế cần phải xác định đúng và tuân thủ các nguyên tắc để đảm bảo quá trình vận hành cũng như đảm bảo lợi ích các bên. Sau đây em xin được nêu và phân tích các nguyên tắc đánh thuế cơ bản nhất để qua đó thấy được ảnh hưởng của các nguyên tắc đó đến quá trình vận hành của hệ thống pháp luật thuế.
II. Nội dung:
Nguyên tắc thứ nhất là đánh thuế phải đảm bảo công bằng. Nguyên tắc này được hiểu là mọi đối tượng có năng lực chịu thuế đều phải nộp thuế và mọi người có điều kiện liên quan đến thuế như nhau phải được đối xử về thuế như nhau. Tính công bằng vẫn được đảm bảo trong cả trường hợp có sự khác nhau về điều kiện, thể hiện ở việc nếu có điều kiện khác nhau thì những đối tượng khác nhau nhưng cùng loại thì phải được đối xử với nhau tương ứng, không được có bất cứ sự phân biệt hay kì thị nào với các đối tượng chịu thuế, là đối tượng cùng loại thì dù có chênh lệch về địa vị xã hội hay khả năng tài chính thì càng phải đảm bảo sự công bằng. Ở Việt Nam, hệ thống pháp luật thuế luôn hướng tới và đảm bảo sự công bằng, các đối tượng có điều kiện như nhau thì phải nộp các loại thuế giống nhau, các đối tượng khác nhau nộp cho nhà nước các giá trị thuế khác nhau đều phải được đối xử như nhau. Mặt khác, những đối tượng được khuyến khích, ưu đãi thì khi có điều kiện họ cũng được hưởng sự đối xử ưu đãi tương ứng.
...
4 trang |
Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 6736 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nêu và phân tích các nguyên tắc đánh thuế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề số 5: Nêu và phân tích các nguyên tắc đánh thuế.
Bài làm:
Mở bài:
Thuế là công cụ chủ yếu để tạo lập nguồn ngân sách nhà nước, tuy nhiên việc tiến hành thu thuế như thế nào để lợi ích của cả hai bên chủ thể (người nộp thuế và nhà nước) đều không bị ảnh hưởng là không hề đơn giản. Do đó, khi đánh thuế cần phải xác định đúng và tuân thủ các nguyên tắc để đảm bảo quá trình vận hành cũng như đảm bảo lợi ích các bên. Sau đây em xin được nêu và phân tích các nguyên tắc đánh thuế cơ bản nhất để qua đó thấy được ảnh hưởng của các nguyên tắc đó đến quá trình vận hành của hệ thống pháp luật thuế.
Nội dung:
Nguyên tắc thứ nhất là đánh thuế phải đảm bảo công bằng. Nguyên tắc này được hiểu là mọi đối tượng có năng lực chịu thuế đều phải nộp thuế và mọi người có điều kiện liên quan đến thuế như nhau phải được đối xử về thuế như nhau. Tính công bằng vẫn được đảm bảo trong cả trường hợp có sự khác nhau về điều kiện, thể hiện ở việc nếu có điều kiện khác nhau thì những đối tượng khác nhau nhưng cùng loại thì phải được đối xử với nhau tương ứng, không được có bất cứ sự phân biệt hay kì thị nào với các đối tượng chịu thuế, là đối tượng cùng loại thì dù có chênh lệch về địa vị xã hội hay khả năng tài chính thì càng phải đảm bảo sự công bằng. Ở Việt Nam, hệ thống pháp luật thuế luôn hướng tới và đảm bảo sự công bằng, các đối tượng có điều kiện như nhau thì phải nộp các loại thuế giống nhau, các đối tượng khác nhau nộp cho nhà nước các giá trị thuế khác nhau đều phải được đối xử như nhau. Mặt khác, những đối tượng được khuyến khích, ưu đãi thì khi có điều kiện họ cũng được hưởng sự đối xử ưu đãi tương ứng.
Nguyên tắc thứ hai là đánh thuế thì cần đảm bảo cân bằng lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế. Nội dung của nguyên tắc này là thuế phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước nhưng không để cho người nộp thuế lâm vào tình trạng khốn cùng. Cần có sự hài hòa giữa lợi ích nhà nước và người nộp thuế. Xét cho cùng thì cho dù là thuế gián thu hay thuế trực thu thì loại thuế đó cũng sẽ đánh vào đông đảo dân cư trong xã hội, chính là người lao động – tầng lớp chịu ảnh hưởng nhiều nhất khi nền kinh tế trì trệ. Cần phải có sự điều chỉnh, xê dịch trong các chính sách thuế để vừa đảm bảo được cuộc sống cho người lao động mà vẫn không gây ảnh hưởng xấu đến lợi ích nhà nước. Hơn nữa, nếu tổng số thuế phải trả quá lớn, đời sống của người dân lao động không được đảm bảo, sẽ kéo nền kinh tế đi xuống, nguy cơ trốn thuế rất cao.
Nguyên tắc hài hòa lợi ích giữa nhà nước và người nộp thuế có ý nghĩa pháp lí rất quan trọng khi xác định những nội dung cụ thể của đạo luật thuế cũng như xác định cơ cấu hệ thống pháp luật thuế. Cụ thể, cần cân nhắc kĩ lưỡng khi xác định thuế suất, biểu thuế để đảm bảo hài hòa lợi ích cả hai bên, người nộp thuế sẽ không bị rơi vào khốn cùng vì các lí do trực tiếp hay gián tiếp từ việc phải nộp thuế mà nguồn ngân sách của nhà nước từ thuế vẫn được đảm bảo. Khi ban hành một loại thuế không được chỉ xem xét nhu cầu chi tiêu của Chính phủ mà cần tính toán đến khả năng tài chính của người nộp thuế, cụ thể số thuế phải nộp đó sẽ chiếm bao nhiêu phần trong thu nhập, doanh thu của người nộp thuế, mức thuế đưa ra có gây ảnh hưởng quá lớn đến thu nhập hay không,…
Nguyên tắc thứ ba là đánh thuế phải đảm bảo dễ hiểu và đạt hiệu quả. Nguyên tắc này gồm hai nội dung, thứ nhất là việc đánh thuế phải đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu cho mọi đối tượng, thứ hai là việc đánh thuế cần đạt hiểu quả cao, cần tổ chức hệ thống thuế sao cho chi phí thu thuế không được cao hơn mục tiêu đề ra cho phép, nhưng hoạt động thu vẫn phải đạt được hiệu quả cao. Tuân thủ nguyên tắc này, các văn bản pháp luật, những quy định về thuế được ban hành sẽ đảm bảo dễ hiểu và dễ thực hiện cho mọi đối tượng, đảm bảo cho việc thực hiện trong một thời gian dài và có tính ổn định cao. Để đảm bảo nội dung thứ hai của nguyên tắc là việc đánh thuế phải đảm bảo hiệu quả thì khi ban hành một loại thuế, cần phải cân nhắc và tính toán thật kĩ các số liệu, mối tương quan giữa tổng thu dự tính đạt được và chi phí dự tính phải trả cho việc thu và quản lí thuế. Tránh không được để xảy ra việc mức phí bỏ ra cho hoạt động thu một loại thuế nào đấy cao hơn mức thuế thu được.
Nguyên tắc cuối cùng là việc đánh thuế phải đảm bảo không xảy ra tình trạng một đối tượng tính thuế phải chịu một loại thuế nhiều lần. Để đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc này, hệ thống pháp luật thuế cần phải có sự “bóc tách” những phần của đối tượng tính thuế đã nằm trong diện chịu loại thuế đó ở giai đoạn trước để tránh việc một đối tượng bị đánh thuế nhiều hơn một lần. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật thuế giữa các quốc gia, nhất là trong thời kì hội nhập này, cũng cần tính tới khả năng các nhà đầu tư, công dân của quốc gia này nhưng có đối tượng tính thuế ở một quốc gia khác, để tránh cho việc trùng lặp không xảy ra khi xây dựng hệ thống pháp luật thuế, cần tham khảo, tìm hiểu về pháp luật thuế ở các quốc gia khác trước khi xây dựng pháp luật ở nước mình.
Kết luận:
Qua việc phân tích các nguyên tắc đánh thuế, ta có thể thấy hệ thống pháp luật về thuế cũng như hoạt động thu thuế cần phải tuân thủ tối đa các nguyên tắc để hoạt động có hiệu quả, đảm bảo lợi ích giữa đối tượng chịu thuế và nhà nước. Hậu quả về kinh tế sẽ rất lớn và khó khắc phục nếu như hệ thống pháp luật thuế cũng như công tác điều hành thu thuế có vấn đề vì vậy cần có sự hoàn thiện, sửa đổi hệ thống pháp luật thuế ngày càng hoàn thiện, đảm bảo yêu cầu của các nguyên tắc nói trên.