Đô thị hóa đã khẳng định vai trò là động lực phát triển kinh tế, là hạt nhân thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động mỗi địa phương, mỗi vùng và cả nước. Đô thị hóa dẫn đến sự tập trung cao độ của dân cư và các cụm công nghiệp tại một vùng, gây ra nhiều thay đổi có liên quan trực tiếp đến khí hậu và môi trường. Mặt khác, chính biến đổi khí hậu cũng có những tác động trở lại và tạo ra những ảnh hưởng nhất định đến quá trình đô thị hóa như: biến đổi khí hậu làm nước biển dâng, lũ lụt, hán hán xảy ra thường xuyên hơn ảnh hưởng đời sống sản xuất, sinh hoạt và sức khỏe của người dân, các hiện tượng của biến đổi khí hậu làm phá hủy các công trình hạ tầng kỹ thuật của đô thị, làm ảnh hưởng môi trường sống của các sinh vật trong hệ sinh thái đô thị, mực nước biển tăng làm triều cường ngập úng xảy ra nhiều hơn.
30 trang |
Chia sẻ: khactoan_hl | Lượt xem: 4347 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến đô thị hóa ở thành phố Hải Phòng. Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Nhóm SV:
1. Phạm Hồng Ánh
2. Bùi Thái Hoàng
3. Trần Thị Thanh Lam
4. Nguyễn Phương Mai
5. Ngô Thị Phong
6. Đào Thị Quỳnh
7. Nguyễn Thị Toản
8. Hoàng Minh Trí
Lớp Kinh tế và Quản lý Đô thị K53
Đề tài:
“NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐẾN ĐÔ THỊ HÓA Ở THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP”
MỞ ĐẦU
Trong thời gian qua, các nhà khoa học, các tổ chức trên thế giới đã liên tục báo động về những biến động bất thường của khí hậu và thời tiết. Hiện tượng Trái Đất đang nóng lên kéo theo tốc độ tan băng ngày càng nhanh ở Nam cực và Bắc cực là một thực tế buộc cả nhân loại phải ứng phó. Sự dâng lên của mực nước biển sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng trăm triệu người, đặc biệt là ở các quốc gia và các vùng lãnh thổ ven biển. Biến đổi khí hậu còn làm cho các thiên tai như lũ lụt, hạn hán, bão, áp thấp nhiệt đới… ngày càng khắc nghiệt hơn. Và Việt Nam được đánh giá là một trong năm quốc gia chịu ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu.
Hải Phòng, còn được gọi là thành phố “Hoa Phượng đỏ”, là một thành phố cảng lớn nhất phía Bắc, là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ vùng duyên hải Bắc. Thành phố còn là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương, được xếp hạng đô thị loại I của quốc gia với tốc độ đô thị hóa ngày càng cao. Với đặc điểm một thành phố ven biển, Hải Phòng là một trong những thành phố chịu ảnh hưởng rõ nét nhất của biến đổi khí hậu ở nước ta, đặc biệt là tác động tồi tệ của nước biển dâng. Biến đổi khí hậu đã và đang ảnh hưởng phần nào đến phát triển đô thị và đô thị hóa của thành phố.
Để làm rõ tác động của biến đổi khí hậu đến quá trình đô thị hóa diễn ra ở thành phố Hải Phòng , từ đó đề xuất những kiến nghị và giải pháp phát triển đô thị hóa thích ứng biến đổi khí hậu, nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến đô thị hóa ở thành phố Hải Phòng. Thực trạng và giải pháp”.
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐÔ THỊ HÓA, BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
CÁC KHÁI NIỆM CHUNG
Đô thị hóa là gì?
Khái niệm về đô thị
Theo thông tư số 34/2009/TT-BXD quy định chi tiết một số nọi dung của Nghị định 42/2009/NĐ-CP của chính phủ về phân loại đô thị đã định nghĩa : «Đô thị là khu vực tập trung dân cư sinh sống với mật độ cao và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực kinh tế phi nông nghiệp, là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa hoặc chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phat triển KT-Xh của quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ , một địa phương bao gồm nội thành, ngoại thành của thành phố; nội thị, ngoại thị của thị xã, thị trấn ».
Khái niệm về đô thị hóa
Hiểu theo nghĩa rộng: “Đô thị hóa là một quá trình diễn thế về kinh tế - xã hội – văn hóa – không gian gắn liền với những tiến bộ khoa học kỹ thuật, trong đó diễn ra sự phát triển nghề nghiệp mới, sự dịch chuyển cơ cấu lao động, sự phát triển đời sống văn hóa, sự chuyển đổi lối sống và sự mở rộng phát triển không gian thành hệ thống đô thị, song song với tổ chức bộ máy hành chính, quân sự”
Hiểu theo nghĩa hẹp, đô thị hóa là “quá trình biến nông thôn thành đô thị, sự phát triển thành phố và việc nâng cao vai trò của nó trong đời sống kinh tế - xã hội”.
Đô thị hóa luôn là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và nâng cao trình độ nhận thức của mỗi cá nhân cũng như của toàn xã hội.
Đô thị hóa là một quá trình phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị, đồng thời phát triển các đô thị hiện có theo chiều sâu.
Đô thị hóa theo chiều rộng gắn với vấn đề mở rộng không gian đô thị theo vùng của quốc gia.
Đô thị hóa theo chiều sâu gắn với quy hoạch không gian đô thị nhằm nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, trình độ và hiệu quả kinh tế, chất lượng và môi trường sống của cư dân trong từng đô thị.
Đô thị hóa là sự quá độ từ hình thức sống nông thôn lên hình thức sống đô thị. Khi kết thúc thời kỳ quá độ thì các điều kiện tác động đến đô thị hóa cũng thay đổi và xã hội sẽ phát triển trong các điều kiện mới… đặc biệt là thay đổi cơ cấu dân cư.
Đô thị hóa gắn liền với sự biến đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của đô thị và nông thôn trên cơ sở phát triển công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ… do vậy, đô thị hóa không thể tách rời một chế độ kinh tế xã hội.
Biến đổi khí hậu là gì?
Theo Công ước Khung của Liên hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu (United Nations Framework Convention on Climate Change) định nghĩa: “ Biến đổi khí hậu là là sự thay đổi của khí hậu mà hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp do tác động của hoạt động con người dẫn đến thay đổi thành phần khí quyển toàn cầu và ngoài ra là những biến thiên tự nhiên của khí hậu được quan sát trên một chu kỳ thời gian dài."
Các biểu hiện của sự biến đổi khí hậu gồm:
Sự nóng lên của khí quyển và trái đất nói chung.
Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất.
Sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển.
Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe doạ sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người.
Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác.
Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển.
MỐI QUAN HỆ CỦA ĐÔ THỊ HÓA VÀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Đô thị hóa dẫn đến sự tập trung cao độ của dân cư và các cụm công nghiệp tại một vùng, gây ra nhiều thay đổi có liên quan trực tiếp đến khí hậu và môi trường. Một số thay đổi đó như: thay đổi mô hình sử dụng đất, tăng trưởng mật độ dân số, tăng sử dụng phương tiện giao thông và năng lượng hoạt động chuyên sâu, tăng trưởng công nghiệp, tăng cường tiêu dùng và thải loại chất thải.
Mật độ dân số tăng
- Tăng chất thải
- Phá rừng
-Giảm đa dạng sinh học
…
Phương tiện giaothông tăng
BIẾNĐỔI KHÍ HẬU
ĐÔ THỊ HÓA
Mức độ sử dụng năng lượng tăng
Tăng các khu công nghiệp
Thay đổi quy mô sử dụng đất
- Đặc trưng của đô thị hóa là quá trình di dân nông thôn ra thành thị dẫn đến tình trạng dân cư tập trung đông đúc ở các khu đô thị làm cho mật đô dân cư tăng nhanh chóng. Dân số lớndẫn đến tiêu thụ thực phẩm, nước và năng lượng nhiều hơn, đồng nghĩa với việc xả thải nhiều hơn. Một thực tế cho thấy, số lượng người càng tăng thì ô nhiễm càng cao. Mặc dù, có một số biện pháp xử lý ô nhiễm, có một hệ thống giáo dục và quản lý môi trường, nhưng tác động của mật độ dân cư đông và số dân cao vẫn làm tổn hại đến môi trường, nhất là ở các đô thị của các nước đang phát triển.
- Xuất phát của một vùng đô thị thường là những nơi thuận tiện giao thông, theo đó kinh tế phát triển kéo theo sự gia tăng dân số. Dân số tăng dẫn đến sự gia tăng về phương tiện giao thông. Số phương tiện tham gia giao thông quá lớn, đặc biệt trong giờ cao điểm ở các đô thị dễ gây ra tình trạng: tắc đường, nạn kẹt xe, tiếng ồn, khí độc, khói, bụi… ảnh hưởng xấu đến môi trường.
- Ở đô thị, mức độ sử dụng năng lượng của các ngành công nghiệp, của phương tiện giao thông, cũng như của người dân… là rất lớn. Năng lượng được sử dụng càng nhiều đồng nghĩa với việc lượng chất thải xả ra ngoài môi trường càng lớn, gây ô nhiễm môi trường đất, nước, môi trường không khí.
- Một thực tế cho thấy, quá trình đô thị hóa luôn gắn liền với quá trình công nghiệp hóa. Công nghiệp hóa càng nhanh thì đô thị hóa càng nhanh dẫn đến việc hình thành nhiều khu công nghiệp ở các đô thị. Các ngành công nghiệp nằm gần các thành phố là nguồn gốc chính của không khí, nước và ô nhiễm đất đai. Hầu hết các năng lượng cần thiết để hỗ trợ các ngành công nghiệp và cuộc sống đô thị được sản xuất bằng cách sử dụng nhiên liệu hóa thạch như than, xăng, diesel hoặc khí tự nhiên… nên chất thải chính của công nghiệp là CO2. Sản xuất công nghiệp ngày càng mạnh thì môi trường đô thị càng bị ô nhiễm, cho dù kỹ thuật phát triển cao giúp cắt giảm lượng chất thải thì lượng chất thải do các nhà máy, xí nghiệp thải ra ngoài môi trường vẫn rất đáng kể.
- Đô thị hóa dẫn đến thay đổi trong việc sử dụng đất tự nhiên. Đô thị hóa phát triển, nhu cầu đất cho nhà ở, cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cũng tăng lên. Chính quyền và dân cư có xu hướng chặt phá rừng, chặt hạ cây cối để lấy đất xây dựng đường giao thông và các tòa nhà cao tầng. Điều này đã hủy hoại môi trường sống của nhiều động thực vật, làm giảm sự đa dạng sinh học, gây mất cân bằng sinh thái. Việc chặt phá rừng cũng gây ra ảnh hưởng xấu tới môi trường không khí, đồng thời tăng nguy cơ lũ lụt. Bên cạnh đó, đất được phủ bê tông, xi măng hay nhựa rải đườngcho nên sự trao đổi giữa môi trường đất và yếu tố tự nhiên bị hạn chế tối đa: tính thấm nước, độ xốp, sự thóat nước tự nhiên, sự trao đổi không khí không còn nữa.
Một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với môi trường là sự tăng trưởng các thành phố lớn, nhất là khi các thành phố này nằm gần bờ biển và các dòng sông. Việc này có thể hủy diệt sinh thái ven biển, ven sông và các vùng đất ngập nước. Chu trình nước tự nhiên bị hạn chế nhiều ở quá trình thấm, dòng chảy tự nhiên và tăng cường quá trình bốc hơi. Hệ thống nước sông rạch được thay bằng cống rãnh hoặc kênh đào, hệ thống nước ngầm cũng bị khai thác tối đa và có thể có nhiều nơi bị ô nhiễm hoặc sụt lún.
Tóm lại, đô thị hóa có tác động xấu đến môi trường,có thể dẫn đến biến đổi khí hậu, bao gồm cả tăng tần suất và cường độ bão, lũ lụt và hạn hán.
Mặt khác, biến đổi khí hậu cũng có những ảnh hưởng nhất định đến quá trình đô thị hóa như: biến đổi khí hậu làm nước biển dâng, lũ lụt, hán hán xảy ra thường xuyên hơn ảnh hưởng đời sống sản xuất, sinh hoạt và sức khỏe của người dân, các hiện tượng của biến đổi khí hậu làm phá hủy các công trình hạ tầng kỹ thuật của đô thị, làm ảnh hưởng môi trường sống của các sinh vật trong hệ sinh thái đô thị, mực nước biển tăng làm triều cường ngập úng xảy ra nhiều hơn trong các đô thị ven biển.
Bão lũ
Hạn hán
Phá hủy hệ sinh thái
….
Phá hủy cơ sở hạ tầng đô thị
Sự nóng lên của Trái Đất
BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
Nước biển dâng
Thay đổi thành phần, chất lượng khí quyển, thủy quyển, sinh quyển…
Thiếu nước sạch trong đô thị
CHƯƠNG 2 – THỰC TRẠNG ĐÔ THỊ HÓA Ở HẢI PHÒNG VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
2.1.1. Tổng quan về thành phố hải Phòng
Vị trí
Hải Phòng là một thành phố ven biển, phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp tỉnh Hải Dương, phía Nam giáp tỉnh Thái Bình, phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ thuộc biển Đông - cách huyện đảo Bạch Long Vĩ khoảng 70 km. Thành Phố cách thủ đô Hà Nội 102 km về phía Đông Đông Bắc.
Thành phố gồm :
+ 7 quận nội thành: Dương Kinh, Đồ Sơn, Hải An, Kiến An, Hồng Bàng, Ngô Quyền, Lê Chân
+ 6 huyện ngoại thành: An Dương, An Lão, Kiến Thụy, Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Thủy Nguyên
+ 2 huyện đảo: Bạch Long Vĩ, Cát Hải
Địa hình
Đồi núi, đồng bằng:Địa hình phía bắc của Hải Phòng là vùng trung du, có đồi xen kẽ với đồng bằng và ngả thấp dần về phía nam ra biển. Khu đồi núi này có liên hệ với hệ núi Quảng Ninh, di tích của nền móng uốn nếp cổ bên dưới, nơi trước đây đã xảy ra quá trình sụt võng với cường độ nhỏ, gồm các loại cát kết, đá phiến sét và đá vôi có tuổi khác nhau được phân bố thành từng dải liên tục theo hướng Tây Bắc Đông Nam từ đất liền ra biển gồm hai dãy chính.
Sông:Sông ngòi ở Hải Phòng khá nhiều, mật độ trung bình từ 0,6 - 0,8 km/1 km². Độ dốc khá nhỏ, chảy chủ yếu theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Đây là nơi tất cả hạ lưu của sông Thái Bình đổ ra biển, tạo ra một vùng hạ lưu màu mỡ, dồi dào nước ngọt phục vụ đời sống con người nơi đây.
Bờ biển và biển:Bờ biển Hải Phòng dài trên 125 km, thấp và khá bằng phẳng, nước biển Đồ Sơn hơi đục nhưng sau khi cải tạo nước biển đã có phần sạch hơn, cát mịn vàng, phong cảnh đẹp. Ngoài ra, Hải Phòng còn có đảo Cát Bà là khu dự trữ sinh quyển thế giới có những bãi tắm đẹp, cát trắng, nước trong xanh cùng các vịnh Lan Hạ.... đẹp và kì thú. Cát Bà cũng là đảo lớn nhất thuộc khu vực Vịnh Hạ Long.
Tài nguyên
Tài nguyên đất đai:Hải Phòng có diện tích đất là 1507,57 km²,trong đó diện tích đất liền là 1208,49 km². Tổng diện tích đất sử dụng là 152,2 nghìn ha trong đó đất ở chiếm 8,61%; đất dùng cho nông nghiệp chiếm 33,64%; đất lâm nghiệp chiếm 14,45%; còn lại là đất chuyên dụng.
Nằm ở ven biển nên chủ yếu là đất phèn, đất mặn, phù sa, đất đồi feralit màu nâu vàng.
Tài nguyên rừng:Hải Phòng có khu rừng nguyên sinh trên đảo Cát Bà, là nơi dự trữ sinh quyển Thế giới. Điều đặc biệt là khu rừng này nằm trên đá vôi, một trạng thái rừng rất độc đáo.
Tài nguyên nước:Là nơi tất cả các nhánh của sông Thái Bình đổ ra biển nên Hải phòng có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mang lại nguồn lợi rất lớn về nước. Ngoài ra, tại Tiên Lãng còn có mạch suối khoáng ngầm duy nhất ở đồng bằng sông Hồng, tạo ra Khu du lịch suối khoáng nóng Tiên Lãng được nhiều người biết đến.
Tài nguyên biển:Bờ biển Hải Phòng trải dài trên 125 km, mang lại nguồn lợi rất lớn về cảng, góp phần phát triển thành cảng cửa ngõ quốc tế của cả miền Bắc và cả nước. Ngành du lịch ở đây cũng rất phong phú với những bãi tắm sạch đẹp như Cát Bà, Đồ Sơn cùng với phong cảnh hữu tình tạo nguồn lợi lớn cho du lịch, Cát Bà còn có các rặng san hô, hệ thống hang động, biển có nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế.
Tài nguyên khoáng sản:Hải Phòng có tài nguyên đá vôi nhiều, và có mỏ đá vôi ở Thuỷ Nguyên.
Khí hậu
Thời tiết Hải phòng mang tính chất cận nhiệt đới ẩm ấm đặc trưng của thời tiết miền Bắc Việt Nam: mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều, mùa đông khô và lạnh, có 4 mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông tương đối rõ rệt. Nhiệt độ trung bình vào mùa hè là khoảng 32,5 °C, mùa đông là 20,3 °C và nhiệt độ trung bình năm là trên 23,9 °C. Lượng mưa trung bình năm là khoảng 1600 – 1800 mm. Độ ẩm trong không khí trung bình 85 - 86%.
Tuy nhiên, Hải Phòng có một chút khác biệt so với Hà Nội về mặt nhiệt độ và thời tiết. Do giáp biển, thành phố này ấm hơn 1 °C vào mùa đông và mát hơn 1 đến 2 độ vào mùa hè.
2.1.2. Quá trình đô thị hóa của thành phố Hải Phòng
2.1.2.1. Giai đoạn trước đổi mới
Với lợi thế là đại bàn “ Cửa ngõ”, ven biển, các đô thị phía Bắc được hình thành và phát triển trong điều kiện mới của tiến trình lịch sử.
Từ cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, Việt Nam bị thực dân Pháp xâm lược. Người Pháp trước hết đã đến các địa bàn cửa ngõ ven biển và quyết định chọn cửa ngõ Hải Phòng để xây dựng và phát triển kinh tế, đồng thời từng bước kiến tạo nó trở thành một đô thị mới theo phong cách phương tây. Theo các nhà sử học: “Trong thời gian sau 15 năm từ sau Hòa ước 1874, đến khi Hải Phòng trở thành một thành phố nhượng địa của Pháp (1888), đã diễn ra một quá trình đô thị hóa cơ bản và nhanh chóng. Quá trình đô thị hóa đã diễn ra song song ở khu vực kề sát nhau. Sau này hợp nhất thành hạt nhân của nội thành Hải Phòng…”
Ở thời kì đó, mặc dù với mục đích thu lợi nhuận về cho chủ nghĩa thực dân, nhưng phải thừa nhận rằng, với việc đô thị hóa Hải Phòng, người Pháp đã thể hiện một tầm nhìn và tư duy đáng xem xét đối với chúng ta đó là phải chọn vị trí “đắc địa” : Hải Phòng có thể liên lạc với toàn xứ Bắc Kỳ, các tỉnh phía Bắc trung kì, nối liền với Hồng Kông, với Lào Cai, Huế, Hà Nội, kể cả với đảo Hải Nam( Trung Quốc) …
Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, với chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã xác định thành phố cảng Hải Phòng là cửa ngõ quan trọng bậc nhất miền Bắc. Vì vậy, bên cạnh việc thực hiện kế hoạch khôi phục và phát triển kinh tế, nhà nước ta đã mời các chuyên gia về quy hoạch đô thị của Ba- Lan đến hợp tác cùng Việt Nam để quy hoạch Hải Phòng. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1955-1975 với vai trò là thành phố cảng lớn nhất miền Bắc, tiếp nhận viện trợ quốc tế , trong các cuộc leo thang phá hoại miền Bắc, máy bay của không quân Mỹ đã tập trung bắn phá ác liệt thành phố, tiến hành phong tỏa Cảng. Vì vậy, nhiều nhà máy, công trình xây dựng, bến cảng, đường giao thông, cầu phà và khu dân cư bị phá hủy hoàn toàn.
2.1.2.2. Giai đoạn sau đổi mới
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, trong giai đoạn này, tốc độ đô thị hóa của Hải Phòng diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Một loạt các đô thị vệ tinh đã và đang trên đà mở rồng, phát triển. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, phát huy thế mạnh về công nghiệp, giao thông vận tải, đặc biệt là cảng, du lịch- dịch vụ và xuất khẩu hàng hoá. Cơ sở hạ tầng, bộ mặt đô thị, nông thôn, hải đảo được chỉnh trang, nâng cấp, đổi mới rõ rệt.
Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 32 của Bộ Chính trị, đô thị Hải Phòng phát triển cả về quy mô và diện mạo theo tiêu chí của đô thị loại I trực thuộc trung ương, đô thị trung tâm cấp quốc gia, mang bản sắc đô thị cảng biển văn minh. Mô hình đô thị Hải Phòng được xác định là đô thị kinh tế, đô thị sinh thái, phát triển theo cấu trúc chùm đô thị với đô thị trung tâm và các đô thị vệ tinh.
Quy mô đô thị Hải Phòng đang được mở rộng trên cả 5 hướng với tốc độ khá nhanh.Thành phố thành lập 3 quận mới với 21 phường. Theo đó, dân số, tổng diện tích đất và quy mô dân số đô thị tăng đáng kể. Tốc độ phát triển đô thị khá nhanh, nhiều khu đô thị mới đã và đang được hình thành: khu đô thị mới Ngã Năm-sân bay Cát Bi; khu đô thị, dịch vụ và công nghiệp VSIP; khu đô thị và nhà ở Cựu Viên; khu đô thị mới Hồ Sen-cầu Rào 2; khu đô thị Lạch Tray Tray-Hồ Đông...
Cùng với phát triển các đô thị mới, khu vực đô thị cũ từng bước tập trung nâng cấp, cải tạo chỉnh trang. Thành phố hoàn thành cải tạo, chỉnh trang dải trung tâm thành phố trở thành điểm nhấn đô thị của thành phố. Bên cạnh đó, nhiều công trình hạ tầng xã hội đầu tư xây dựng từ vốn trái phiếu Chính phủ như Trường đại học Hải Phòng; xây dựng Bệnh viện Việt Tiệp thành bệnh viện đa khoa cấp vùng; Khu liên hợp thể thao trên đường 353 có quy mô khu vực vùng duyên hải Bắc Bộ, xây dựng Trung tâm Hội nghị thành phố. Bộ Xây dựng phối hợp thành phố triển khai một số dự án hạ tầng kỹ thuật đô thị quan trọng như: Đầu tư phát triển hệ thống cấp nước, thoát nước, xử lý rác thải và môi trường vay vốn Chính phủ Phần Lan, Nhật Bản, Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB).
Nhờ vậy, đến nay, đô thị Hải Phòng đạt 36/49 tiêu chí đô thị loại 1, trong đó nhiều tiêu chí vượt xa so với chỉ tiêu về nhà ở, đất dân dụng, cơ sở y tế, trung tâm thương mại-dịch vụ.
Tốc độ đô thị hóa của Hải Phòng trong giai đoạn này được thể hiện qua các thông số sau:
Về quy mô dân số
Trong những năm qua, dân số đô thị Hải Phòng đã có sự gia tăng rõ nét. Không chỉ tăng về số lượng, tỉ lệ dân số thành thị ở Hải Phòng cũng liên tục tăng qua các năm.
Dân số và tỉ lệ dân số ở thành thị và nông thôn Hải Phòng giai đoạn 2002-2012
2002
2004
2006
2008
2010
2011
2012
Dân số thành thị(nghìn người)
643,6
696,6
753,3
815,9
858,8
871,3
885,0
Dân số nông thôn(nghìn người)
1081,7
1061,2
1035,8
1008,2
999,0
1008,5
1019,1
Tỉ lệ dân số thành thị (%)
37,3
39,6
42,1
44,7
46,2
46,4
46,5
Tỉ lệ dân số nông thông (%)
62,7
60,4
57,9
55,3
53,8
53,6
53,5
(Tổng cục dân số)
Trong vòng 10 năm, từ năm 2002-2012, dân số thành thị đã tăng lên 241,4 nghìn người, dân số nông thôn giảm 62,6 nghìn người. Theo đó, tỉ lệ dân thành thị tăng tương ứng là 9,2% - đâylà một con số khá lớn.
Về tổng sản phẩm
Tổng sản phẩm trên địa bàn toàn thành phố cũng tăng đáng kể: năm 1990 là 1.099,9 tỷ đồng, năm 2000 là 10.487,1 tỷ đồng, năm 2010 là 57.228,6 tỷ đồng. Trong đó, giá trị sản xuất nông nghiệp tăng từ 910,8 tỷ đồng năm 1985 lên 2310,4 tỷ đồng năm 2000 và đạt 9031,1 tỷ đồng năm 2010. Đồng thời, giá trị sản xuất công nghiệp cũng có chiều hướng tăng mạnh: năm 1985 giá trị sản xuất công nghiệp mới chỉ đạt 1145,4 tỷ đồng thì đến năm 2000 đã tăng lên 8709,2 tỷ đồng và năm 2012 đã đạt mức 50.456 tỷ đồng. Ngành dịch vụ tăng mạnh trong giai đoạn này, đặc biệt là tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng lên đáng kể từ 1,96