Nghiên cứu khảo sát môn học phát âm cho sinh viên năm thứ 1, khoa sư phạm Tiếng Anh - Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc Gia Hà Nội

Để có thể giao tiếp nói bằng một ngôn ngữ nước ngoài theo cách giống như một người bản ngữ, người học thứ tiếng ấy phải đạt được một mức nhất định về độ chính xác (accuracy) và độ trôi chảy (fluency). Một số yếu tố khác như sự linh hoạt, âm vực và kích cỡ (âm lượng và độ dài) của lời nói cũng được cho là có ảnh hưởng đến khả năng nói của người học (Hedge, 2000), tuy nhiên độ chính xác và độ trôi chảy vẫn được quan tâm hơn cả vì dường như hai yếu tố này nổi lên bề mặt phía trên dễ nhận thấy nhất đối với người tham gia giao tiếp. Nhưng trong suốt quá trình nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung và việc dạy và học ngôn ngữ nói riêng, một vấn đề vẫn gây nhiều tranh cãi là yếu tố nào trong số hai yếu tố trên nên quan trọng hơn và được ưu tiên hơn. Xu hướng thiên lệch thay đổi theo thời gian, tuy nhiên tại thời điểm hiện tại trào lưu chú trọng về truyền đạt thông điệp (message-oriented) quan tâm đến độ trôi chảy hơn là độ chính xác. Khái niệm độ chính xác, vì vậy, đang bị phần nào "bỏ quên". Dù trào lưu hiện tại không dành nhiều giấy mức cho 'độ chính xác trong ngôn ngữ' như nó đáng được nhận, khái niệm này, biểu hiện rõ ràng trong khả năng ngữ âm (cách phát âm) của người giao tiếp, vẫn đóng một vai trò không thể thiếu trong quá trình dạy, học và nắm vững một ngôn ngữ. Điều này càng đúng hơn trong trường hợp của tiếng Anh: người ta có thể đánh giá trình độ học vấn và địa vị xã hội của một người thông qua ngữ âm của anh ta (McDowall, 2002). Điều này đồng nghĩa với việc nếu một người học tiếng Anh muốn có được khả năng sử dụng thứ tiếng này như một người bản ngữ, và muốn được đánh giá cao về mặt học thuật, thì phải trau dồi ngữ âm của mình. Tuy nhiên, đối với người học tiếng Anh như một ngoại ngữ, việc học và nắm vững phát âm là một trở ngại lớn vì hệ thống chính tả của tiếng Anh (orthography) "khét tiếng là vô ích" nếu ai đó muốn suy ra cách phát âm của một từ từ cách viết của từ đó (Lecumberri & Maidment, 2000). Khác với các ngôn ngữ mà hệ thống chữ viết có thể gợi ý cả cách phát âm các từ ở một mức độ nào đó như tiếng Việt, tiếng Nhật, tiếng Hàn Quốc, tiếng Nga, hay tiếng Pháp, sự liên hệ giữa chính tả và ngữ âm trong tiếng Anh rất lỏng lẻo, gây khó khăn cho những người mới học tiếng Anh. Với đối tượng là các sinh viên năm thứ nhất trường ĐHNN - ĐHQGHN, điều này lại càng là một cản trở lớn, vì hầu hết các sinh viên đều không được tiếp cận với ngữ âm một cách hệ thống và thấu đáo trong chương trình học tại trường phổ thông.

doc44 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 10641 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu khảo sát môn học phát âm cho sinh viên năm thứ 1, khoa sư phạm Tiếng Anh - Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc Gia Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ ========= ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP ĐẠI HỌC QUỐC GIA NĂM HỌC 2008 - 2009 Mã số: QN.08.12 Chuyên ngành: Phương Pháp Giảng Dạy NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT MÔN HỌC PHÁT ÂM CHO SINH VIÊN NĂM THỨ 1, KHOA SƯ PHẠM TIẾNG ANH, ĐHNN-ĐHQG Hà Nội Chñ nhiÖm ®Ò tµi: Th¹c sü Khoa Anh ViÖt Céng sù: CÊn ThÞ Chang Duyªn, NguyÔn Hång DiÖu, NguyÔn ThÞ DiÖu Hµ, L­u Ngäc Ly, NguyÔn TrÇn Ngäc Liªn, TrÇn Thu Hµ, NguyÔn Ph­¬ng Trµ, Hoµng ThÞ HuyÒn Ngäc Hà Nội 2010 MỤC LỤC CHƯƠNG 1: ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Lý do chọn đề tài Để có thể giao tiếp nói bằng một ngôn ngữ nước ngoài theo cách giống như một người bản ngữ, người học thứ tiếng ấy phải đạt được một mức nhất định về độ chính xác (accuracy) và độ trôi chảy (fluency). Một số yếu tố khác như sự linh hoạt, âm vực và kích cỡ (âm lượng và độ dài) của lời nói cũng được cho là có ảnh hưởng đến khả năng nói của người học (Hedge, 2000), tuy nhiên độ chính xác và độ trôi chảy vẫn được quan tâm hơn cả vì dường như hai yếu tố này nổi lên bề mặt phía trên dễ nhận thấy nhất đối với người tham gia giao tiếp. Nhưng trong suốt quá trình nghiên cứu về ngôn ngữ nói chung và việc dạy và học ngôn ngữ nói riêng, một vấn đề vẫn gây nhiều tranh cãi là yếu tố nào trong số hai yếu tố trên nên quan trọng hơn và được ưu tiên hơn. Xu hướng thiên lệch thay đổi theo thời gian, tuy nhiên tại thời điểm hiện tại trào lưu chú trọng về truyền đạt thông điệp (message-oriented) quan tâm đến độ trôi chảy hơn là độ chính xác. Khái niệm độ chính xác, vì vậy, đang bị phần nào "bỏ quên". Dù trào lưu hiện tại không dành nhiều giấy mức cho 'độ chính xác trong ngôn ngữ' như nó đáng được nhận, khái niệm này, biểu hiện rõ ràng trong khả năng ngữ âm (cách phát âm) của người giao tiếp, vẫn đóng một vai trò không thể thiếu trong quá trình dạy, học và nắm vững một ngôn ngữ. Điều này càng đúng hơn trong trường hợp của tiếng Anh: người ta có thể đánh giá trình độ học vấn và địa vị xã hội của một người thông qua ngữ âm của anh ta (McDowall, 2002). Điều này đồng nghĩa với việc nếu một người học tiếng Anh muốn có được khả năng sử dụng thứ tiếng này như một người bản ngữ, và muốn được đánh giá cao về mặt học thuật, thì phải trau dồi ngữ âm của mình. Tuy nhiên, đối với người học tiếng Anh như một ngoại ngữ, việc học và nắm vững phát âm là một trở ngại lớn vì hệ thống chính tả của tiếng Anh (orthography) "khét tiếng là vô ích" nếu ai đó muốn suy ra cách phát âm của một từ từ cách viết của từ đó (Lecumberri & Maidment, 2000). Khác với các ngôn ngữ mà hệ thống chữ viết có thể gợi ý cả cách phát âm các từ ở một mức độ nào đó như tiếng Việt, tiếng Nhật, tiếng Hàn Quốc, tiếng Nga, hay tiếng Pháp, sự liên hệ giữa chính tả và ngữ âm trong tiếng Anh rất lỏng lẻo, gây khó khăn cho những người mới học tiếng Anh. Với đối tượng là các sinh viên năm thứ nhất trường ĐHNN - ĐHQGHN, điều này lại càng là một cản trở lớn, vì hầu hết các sinh viên đều không được tiếp cận với ngữ âm một cách hệ thống và thấu đáo trong chương trình học tại trường phổ thông. Trên thế giới, các nghiên cứu về việc dạy và học ngữ âm cũng cho thấy các vấn đề tương tự. Fraser (2001) chỉ ra rằng việc phát âm tốt đem lại rất nhiều lợi ích cho người nhập cư ở Australia (trong việc kiếm việc làm, đạt được các mục đích giáo dục, hoặc trong các khía cạnh khác của cuộc sống). Ngữ âm tốt có phần còn quan trọng hơn cả ngữ pháp tốt, vì dù ngữ pháp có hoàn hảo đến mức nào đi chăng nữa, cũng sẽ có thể hoàn toàn bị che khuất bởi khả năng phát âm tồi. Tuy nhiên, theo Silveira (2002), việc dạy phát âm lại đã thiếu vắng tại các lớp học tiếng Anh như một ngoại ngữ trong một thời gian dài bởi một lý thuyết cổ điển cho rằng ngữ âm không quan trọng trong quá trình dạy và học ngôn ngữ, và người học có thể tự "thu nhặt" được nó trong quá trình giao tiếp. Rất may là niềm tin ấy đã không còn phổ biến như trước, và việc dạy và học ngữ âm đã trải qua một bước thay đổi lớn, để hiện nay trở thành một yếu tố làm hoàn thiện không chỉ khả năng giao tiếp mà cả khả năng xây dựng diễn ngôn (discourse), ngôn ngữ học xã hội (sociolinguistics) và chiến lược ngôn ngữ (strategic competence) (Morley, 1994). Dựa vào thực trạng như trên, nhóm nghiên cứu xét thấy việc đưa môn phát âm vào chương trình học của sinh viên khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh - Mỹ là rất cần thiết. Hiện tại có hai nhóm đối tượng chính đang được đào tạo tại khoa: nhóm sinh viên học ngành sư phạm, và nhóm sinh viên học ngành phiên dịch. Đối với nhóm thứ nhất, vai trò của việc học phát âm là vô cùng quan trọng, vì những sinh viên này sau khi ra trường sẽ là người truyền đạt các kỹ năng cũng như kiến thức về tiếng Anh cho rất nhiều người học khác. Nếu sinh viên không nắm được ngôn ngữ này một cách chuẩn mực sẽ dẫn đến những thông tin sai lệch cho nhiều người. Còn đối với sinh viên ngành phiên dịch, phát âm lại đóng vai trò là một công cụ chủ chốt trong quá trình lao động: nếu có khả năng phát âm tốt, họ sẽ có thể làm cho các bên tham gia giao tiếp hiểu nhau dễ dàng hơn. Việc học phát âm lại càng quan trọng hơn nữa đối với các sinh viên năm thứ nhất, vì phần lớn họ đang ở độ tuổi trẻ nhất trong trường đại học (khoảng 18-19 tuổi). Rất nhiều nghiên cứu cho thấy rằng người học càng lớn tuổi thì khả năng có được phát chuẩn như người bản ngữ càng ít đi, cho dù các yếu tố khác của ngôn ngữ như ngữ pháp hoặc từ vựng có thể không khác gì so với người bản ngữ. Có thể kể đến ở đây các tác giả tiêu biểu ủng hộ quan điểm này như Oyama (1976), Snow & Hoefnagel-Hohle (1977), Werker et al. (1981) hay Kenworthy (1988). Vì vậy, giới thiệu môn học phát âm cho sinh viên ngay tại thời điểm đầu tiên của bậc học đại học là một việc cần thiết để nâng cao khả năng ngôn ngữ cho sinh viên cũng như hoàn thiện chương trình dạy và học tại trường đại học. Hơn thế nữa, môn phát âm còn phải được tách ra thành một môn học riêng chứ không tích hợp với các môn kỹ năng khác để nâng cao ý thức của sinh viên với môn học cũng như có nhiều điều kiện thử nghiệm và hoàn thiện môn phát âm nói riêng và giao tiếp nói nói chung hơn. Nghiên cứu này ra đời với mong muốn mang lại một cái nhìn toàn diện hơn về môn học phát âm, cũng như nhằm tạo ra được một chương trình học chất lượng và hiệu quả. 1.2. Mục đích nghiên cứu Xét đến sự cần thiết của môn học như đã được trình bày trên đây, nghiên cứu này tập trung vào nhiệm vụ đánh giá lại quá trình dạy và học môn phát âm trong học kỳ I, năm học 2008-2009 dành cho sinh viên năm thứ nhất của khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh - Mỹ, trường ĐHNN - ĐHQGHN. Qua việc tìm hiểu ý kiến đành giá của sinh viên về khóa học và tự đánh giá các khó khăn cũng như kết quả giáo dục trong khóa học, nhóm nghiên cứu sẽ đưa ra các giải pháp tương ứng nhằm hoàn thiện hơn cho các kỳ học sau. Nhìn chung, nghiên cứu này mong muốn trả lời được các câu hỏi sau đây: Điểm mạnh và điểm yếu của môn học phát âm đã được triển khai là gì? Sinh viên có mong muốn gì đối với nội dung cũng như hình thức dạy và học của môn học phát âm? Đánh giá chung của sinh viên đối với môn học phát âm đã được triển khai là gì? 1.3. Phạm vi nghiên cứu: Do những hạn chế về thời gian, đối tượng, nguồn kinh phí, điều kiện cơ sở vật chất và những hạn chế khách quan của bản thân đề tài nên việc triển khai môn học này chỉ tập trung cho sinh viên năm thứ nhất của khoa Anh. Mục tiêu nghiên cứu: Nhận thức về tầm quan trọng của phát âm. Phân tích và đánh giá thực trạng của sinh viên năm thứ nhất trong việc phát âm, khảo sát đánh giá tình hình triển khai môn học từ đó đề ra một số phương pháp và kiến nghị nhằm cải tiến chất lượng dạy và học ngữ âm. 1.4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong nghiên cứu là phương pháp nghiên cứu trường hợp dựa vào đối tượng của hoạt động dạy phát âm. Khách thể nghiên cứu là toàn bộ sinh viên năm thứ nhất khóa QHF.E.1.08 khoa Anh. Bảng câu hỏi khảo sát được đưa ra vào buổi học cuối của môn phát âm trong kì I năm học 2008-2009. Công cụ thu thập số liệu Nghiên cứu khảo sát hiệu quả của việc ứng dụng thông qua phản hồi của sinh viên nên phương pháp khảo sát sử dụng công cụ là bảng câu hỏi khảo sát được áp dụng. Quy trình thu thập số liệu: Bảng câu hỏi sau khi đã được phát cho sinh viên đánh giá sẽ được thu lại và gửi tới đội ngũ trợ giảng là các giáo viên đề thống kê và thu thập. Sau đó, giáo viên chính sẽ tập hợp và phân tích các số liệu. Cách thức phân tích số liệu Kết quả số liệu thu được được định lượng hoá theo tỉ lệ phần trăm từ 0 đến 100 và lấy đến 1 số sau dấu phẩy. Phần câu hỏi mở để sinh viên nêu lên những nhận xét và đóng góp nhằm cải thiện chất lượng dạy và học sẽ được tổng hợp từ những điểm chung nổi bật. Từ các kết luận thu được từ kết quả khảo sát và phân tích các dữ liệu, tác giả thông qua đó có thể đánh giá một cách chính xác mức độ khả thi và hiệu quả của việc triển khai giảng dạy môn phát âm thông qua nhu cầu của người học và rút ra những nhận xét mang tính ứng dụng trực tiếp và đóng góp những đề nghị nhằm cải tiến chất lượng dạy và học Phát âm. CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN 2.1. Quan niệm về phát âm (pronunciation) Nghiên cứu về phát âm bao gồm hai lĩnh vực đó là ngữ âm học (phonetics) và âm vị học (phonology). Trong đó, ngữ âm học (phonetics) nghiên cứu về âm thanh lời nói (speech sounds). Một nhà ngữ âm học thường nghiên cứu về một trong những vấn đề sau: Ảnh hưởng của kết cấu (anatomical), tâm lí (neurological) và thần kinh (physiological) đến lời nói (thường được biết đến là các chức năng tâm lí của ngữ âm học (physiological phonetics) ) Sự hoạt động (actions) và chuyển động (movements) của các cơ quan cấu âm trong quá trình phát ra âm, thường được biết đến là cách phát âm ngữ âm học (articulatory phonetics) Bản chất (nature) và độ vang (acoutics) của song âm trong quá trình phát ra âm (acoustic phonetics) Làm thế nào âm được nhận diện bởi cơ quan thính giác (auditory phonetics) Làm thế nào não lĩnh hội được âm (perceptual phonetics) Ngữ âm học là một lĩnh vực rộng lớn và không cần thiết phải có sự liên quan trực tiếp với việc nghiên cứu ngôn ngữ. Mặc dù những ngành nghiên cứu ngữ âm học được nêu trên có thể được nghiên cứu một cách độc lập với những ngành khác nhưng chúng hoàn toàn có liên quan đến nhau. Ví dụ như các cơ quan cấu âm tạo ra âm thanh, âm thanh được truyền đi dưới dạng song âm, sóng âm được truyền tới cơ quan thính giác và được xử lí thong tin bởi bộ não. Nếu như ngữ âm học liên quan đến bản chất về mặt vật lí của âm thanh lời nói thì âm vị học (phonology) lại quan tâm đến vấn đề làm thế nào để hiểu và hệ thống âm thanh. Âm vị học nghiên cứu hệ thống âm (system of sounds) và thành phần âm (pattern of sounds) tồn tại trong một ngôn ngữ cụ thể nào đó. Nghiên cứu về âm vị học bao gồm có các âm vị của Tiếng Anh như các đặc điểm của nguyên âm (vowels), phụ âm (consonants) và siêu đoạn (superasegmental). Trong lĩnh vực âm vi học, khi nói đến nguyên âm và phụ âm là nói đến những âm khác nhau chúng ta tạo ra khi phát ra lời nói chứ không phải là những nguyên âm và phụ âm mà chúng ta viết. Sẽ là sai lầm nếu như chúng ta cho rằng âm vị học luôn luôn là đơn ngữ (monolingual). Rất nhiều nghiên cứu âm vị học đã khái quát hóa những quy tắc về cách tổ chức và thể hiện âm thanh (organization and interpretation of sounds) có thể áp dụng cho nhiều ngôn ngữ khác nhau. 2.2. Một vài quan niệm về phương pháp dạy phát âm (teaching pronunciation approaches) Trong lịch sử của việc giảng dạy ngôn ngữ, Kelly (1969) đã gọi phát âm là “Cinderella” của việc dạy ngoại ngữ. Ông đã chỉ ra rằng những nhà tâm lí học và ngôn ngữ học Phương Tây đã nghiên cứu về ngữ pháp, từ vựng lâu hơn việc nghiên cứu về phát âm rất nhiều. Việc giảng dạy phát âm mới chỉ được nghiên cứu một cách có hệ thống từ đầu thế kỉ 20. Vì thế, ngữ pháp và từ vựng được hầu hết những giáo viên dạy ngoại ngữ tìm hiểu một cách kĩ càng hơn so với phát âm. Lĩnh vực giảng dạy ngôn ngữ học hiện đại được phát triển theo hai đường hướng chính để dạy phát âm. Đó là đường hướng bắt chược theo trực giác ( intuitive-imitative approach) và đường hướng phân tích ngôn ngữ học (analytic-linguistic approach). Trước cuối thế kỉ 19, chỉ có phương pháp đầu tiên được áp dụng và thỉnh thoảng được bổ sung bằng những kinh nghiệm của giáo viên và những cuốn sách chia sẻ kinh nghiệm, quan sát chủ quan của các nhà nghiên (tập trung vào những lỗi thuộc về ngữ âm) (Kelly, 1969). 2.2.1. Phương pháp bắt chước theo trực giác ( intuitive-imitative approach) phụ thuộc vào khả năng của người học có thể nghe và bắt chước âm điệu và âm thanh của ngôn ngữ đích (target language) mà ko cần sự can thiệp của bất cứ một giải thích nào về thông tin. Phương pháp này cũng bao hàm sự sẵn có của những mô hình lí tưởng để áp dụng, sự trợ giúp của những chiếc máy ghi đĩa đầu tiên, sau đó là bằng cassette, những phòng thí nghiệm cho ngôn ngữ vào giữa thế kỉ 20 và ngày nay là những phương tiện nghe nhìn như băng video và đĩa CD. 2.2.2. Phương pháp phân tích ngôn ngữ học (analytic-linguistic approach) lại sử dụng thông tin và phương tiện như bảng chữ cái ngữ âm, sự miêu tả phát âm, mô tả hệ thống phát âm, các thông tin đối chiếu so sánh, các phương tiện hỗ trợ để bổ sung kĩ năng nghe, bắt chước, phát âm. Phương pháp này cung cấp những thông tin một cách trực tiếp cho người học và hướng sự tập trung vào âm thanh, ngữ điệu của ngôn ngữ đích (target language). Phương pháp này đã được phát triển đến giai đoạn hoàn thiện chứ không đơn thuần là sự thế chỗ cho phương pháp bắt chược theo trực giác (intuitive-imitative approach). 2.3. Vấn để kiểm tra đánh giá trong việc dạy phát âm: Theo các tác giả Cele-Murcia, Brinton, Goodwin (1996) hiện nay vấn đề kiểm tra đánh giá trong việc dạy phát âm không nhận được nhiều sự quan tâm như các lĩnh vực khác. Một phần là vì cách đánh giá trong phát âm cũng được tiến hành như các kĩ năng khác như nghe, đọc, viết. Nhưng không giống như các lĩnh vực khác, việc kiểm tra đánh giá trong phát âm có những khía cạnh riêng biệt ảnh hưởng tới việc đánh giá được thực hiện như thế nào, phản hồi được đưa ra ra sao, và khi nào thì đưa ra hướng dẫn… Một đặc điểm nỗi bật trong các yếu tố riêng biệt đó là phát âm không chỉ là sự áp dụng các qui luật đơn thuần mà liên quan tới sự nhận thức và sản phẩm phát âm của người học. Các tác giả Cele-Murcia, Brinton, Goodwin (1996) đã trình bày 3 loại hình kiểm tra đánh giá trong môn học phát âm đó là kiểm tra chẩn đoán (Diagnostic evaluation), đánh giá và phản hồi thường xuyên (ongoing evaluation with feedback), và kiểm tra trong lớp học (Classroom testing). 2.3.1. Đánh giá chẩn đoán: (Diagnostic evaluation) Đây là kiểu đánh giá để xác định trình độ của người học. Kiểu đánh giá này thường nhằm mục đích xác định xem người học có thể thực hiện được một nhiệm vụ nhất định hay không, hoặc để xếp người học vào lớp tương xứng với trình độ ngôn ngữ của họ. Trong những trường hợp cụ thể, đây cũng là phương pháp ban đầu người thầy dùng để lập ra hay điều chỉnh mục đích của khóa học cho phù hợp với một bộ phận người học cụ thể và xác định được nhu cầu của mỗi cá nhân. Tóm lại, đây chính là một đánh giá tổng thể về sự nhận thức (perception) và sản phẩm (production) của cả lớp học và của từng người học. 2.3.1.1.Chẩn đoán nhận thức: (Diagnosing perception) Những bài kiểm tra chẩn đoán về phân biệt âm khi nghe phải kiểm tra được khả năng của người học trong việc phân biệt những yếu tố đoạn tính (segmental) và các yếu tố siêu đoạn tính (suprasegmental). Điều này có thể thực hiện được bằng nhiều cách. a. Phân biệt nguyên âm – phụ âm: Phương pháp tốt nhất là sử dụng những bài tập phân biệt cặp âm tối thiểu (minimal pairs) Ví dụ: Đánh dấu từ nghe được: Don’t slip/ sleep on the floor. He’s gone to back up/ pack up the car. b. Trọng âm từ: Nhận diện trọng âm từ có thể kiểm tra bằng cách yêu cầu học sinh chọn từ hoặc câu có đánh dấu trọng âm đúng trong một đoạn hội thoại hay đoạn văn được ghi âm hoặc do giáo viên đọc. Ví dụ: Đánh dấu lựa chọn thể hiện trọng âm chính của từ (từ in hoa = trọng âm chính) Photography is one of my favourite activities. PHOtography D. ACtivities phoTOgraphy E. acTIVities photoGRAPHy F. activities c. Trọng âm câu: Nhận diện từ được nhấn mạnh trong câu có thể làm giống như với trọng âm từ. Ví dụ: Nghe những phát ngôn sau và đánh dấu lựa chọn thể hiện trọng âm phù hợp: Hi, I’m Joe Miller. What’s your name? HI, I’m JOE Miller. WHAT’S your name? HI, I’M Joe LILLer. What’s YOUR name? Hi, I’m Joe Miller. What’s your name? d. Ngữ điệu: Có hai cách để kiểm tra sự phân biệt ngữ điệu của người học. Cách thứ nhất là phân biệt phát ngôn có ngữ điệu lên hay lên xuống. Ví dụ: Nghe các phát ngôn và đánh dấu vào ô thể hiện ngữ điệu của phát ngôn. Phát ngôn Câu hỏi Câu tường thuật 1. Mary’s gone home   2. The VCR doesn’t work   3. Jim and Jessica had triplets   Loại hình bài tập này có thể được biến đổi gắn với các dạng ngữ pháp mà nghĩa của phát ngôn có sự khác nhau bởi sự lên hay xuống của ngữ điệu. Ví dụ: Đánh dấu ô tương ứng với ngữ điệu của phát ngôn: (Trong câu hỏi đuôi, người phát ngôn dùng ngữ điệu lên xuống khi chắc chắn và ngữ điệu lên nếu không chắc chắn) Phát ngôn Chắc chắn Không chắc chắn 1. He hasn’t finished fixing the car, has he? 2. The situation’s getting worse, isn’t it? 3. The stores will be really crowded this time of year, won’t they? d. Nuốt âm: (reduced speech) giáo viên có thể đưa ra một đoạn ngắn có ô trống là những từ bị nuốt và không được nhấn mạnh. Người học sẽ điền vào các từ đó khi nghe đoạn băng. Ví dụ: Nghe đoạn thông tin dự báo thời tiết sau và điền vào ô trống: This is WPRO weather update. The weather on Friday is expected (1) _______ be cool (2)_______ cloudy. There will be fifty percent chance (3) _______ showers in the morning, but is (4) ______ clear up by late afternoon. Temperatures will range (5) _______ a low of forty-five degrees to a high of sixty-two. Answers: to and of should from 2.3.1.2. Chẩn đoán sản phẩm trong lớp học: Có hai loại mẫu sản phẩm phát ngôn của người học đó là: - một mẫu người học đọc to (reading aloud) - một mẫu người học nói tự do (free speech) Hai loại mẫu này bổ sung cho nhau giúp giáo viên xác định rõ được người học nhận thức được bài học ở mức độ nào. Ở loại hình thứ nhất, giáo viên thường sử dụng một văn bản viết được gọi là đoạn văn chẩn đoán (diagnostic passage). Thực tế, đoạn văn này được thiết kế sao cho có đầy đủ tất cả hoặc là hầu hết các yếu tố đoạn tính và siêu đoạn tính của tiếng Anh. Giáo viên nên cho học sinh nghe trước đoạn văn đó do người bản ngữ đọc hoặc do chính giáo viên đọc. Sau đó giáo viên nên cho người học có thời gian luyện tập trước khi ghi âm. Việc luyện tập đọc trước giúp người học tránh được các lỗi đọc không tự nhiên, làm cho họ cảm thấy thoải mái hơn khi đọc, và cũng giúp giáo viên đánh giá được chính xác các lỗi rất tiêu biểu của cá nhân mỗi người học. Người học không nhất thiết phải đọc và ghi âm ngay tại lớp hay phòng máy mà có thể ghi âm ở nhà sau đó nộp cho giáo viên để đánh giá và gửi phản hồi dưới dạng viết (written feedback). Giáo viên nên sử dụng thống nhất một đoạn văn như nhau cho cả hai lần kiểm tra, trước khi bắt đầu khóa học (để xác định nhu cầu của người học) và khi kết thúc khóa học (để đánh giá sự tiến bộ của người học). Vì đọc to một đoạn văn không cho thấy được khả năng phát âm của người học trong những tình huống tự nhiên vì thế việc lấy mẫu phát âm tự nhiên (spontaneous sample) là rất cần thiết. Để thu thập được mẫu này, giáo viên có thể cho người học nói tự do trong vòng một hoặc hai phút về một chủ đề quen thuộc như quê hương, gia đình, kỉ niệm thơ ấu đáng nhớ nhất, sở thích, công việc hiện tại, … Một điều quan trọng khi chọn chủ đề nói là làm sao cho người học cảm thấy thoải mái nhất nói về chủ đề đó. Giáo viên có thể cho người học chọn một trong nhiều chủ đề để nói. 2.3.2. Đánh giá thường xuyên: (ongoing evaluation with fe

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2.doc
  • doc1.doc
Luận văn liên quan