Nghiên cứu mức độ thỏa mãn của người nước ngoài khi đi du lịch ở Việt Nam và một số giải pháp marketing nhằm nâng cao mức độ thỏa mãn của họ

Du lịch hiện nay đang ngày càng trở nên phổ biến và nó cũng thể hiện vai trò ngày càng lớn đối với nền kinh tế. Được coi là một ngành công nghiệp” không khói” , du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của rất nhiều quốc gia. Ngành du lịch Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước trên thế giới nhưng vai trò của nó thì không thế phủ nhận. Ngoài đem lại GDP cho đất nước nó còn giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, đặc biệt là du lịch quốc tế đem lại ngoại tệ cho Việt Nam và góp phần truyền bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Thế nhưng, một thực trạng hiện nay đó là ngành du lịch Việt Nam thường đánh giá sự phát triển của mình dựa trên số lượng du khách gia tăng mà chưa chú ý đánh giá việc tăng chất lượng dịch vụ. Trong khi chất lượng mới là yếu tố giúp ngành du lịch phát triển bền vững và đạt được doanh thu cao. Theo một cuộc điều tra gần đây nhất thì chỉ có 15% khách du lịch nước ngoài quay trở lại Việt Nam để du lịch lần thứ 2, con số này so với thế giới thực sự là quá thấp. Tại sao nước ta cũng có những cảnh đẹp làm say lòng người không kém gì Thái Lan, Singapo như : Hạ Long, Đà Lạt, Chùa Hương mà trong khi đó chúng ta không thể tận dụng để phát triển du lịch một cách chuyên nghiệp, để níu chân được du khách, để họ còn có ý định quay trở lại Việt Nam để du lịch hoặc giả nếu họ muốn giới thiệu cho bạn bè họ đến Việt Nam thì họ cũng cảm thấy tự hào khi đã giới thiệu một điểm đến lý tưởng? Đứng trước một thực trạng như vậy, bất kỳ ai yêu thiên nhiên, yêu cảnh đẹp ở Việt Nam đều cảm thấy tiếc nuối vì điều đó. Chúng em là một nhóm gồm 2 sinh viên, thực sự là rất muốn góp một phần công sức nào đó để có thể cải thiện tình hình du lịch ở nước ta hiện nay. Vì thế, chúng em đã chọn đề tài “ nghiên cứu mức độ thỏa mãn của người nước ngoài khi đi du lịch ở Việt Nam và một số giải pháp marketing nhằm nâng cao mức độ thỏa mãn của họ”. Do hạn chế của quá trình nghiên cứu nên bài viết vẫn còn nhiều thiếu sót, vì thế em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo hướng dẫn: TS Nguyễn Ngọc Quang. CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM.

doc91 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2856 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Nghiên cứu mức độ thỏa mãn của người nước ngoài khi đi du lịch ở Việt Nam và một số giải pháp marketing nhằm nâng cao mức độ thỏa mãn của họ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU MỨC ĐỘ THỎA MÃN CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI DU LỊCH Ở VIỆT NAM VÀ CÁC GIẢI PHÁP MARKETING ĐỂ NÂNG CAO MỨC ĐỘ THỎA MÃN. Danh sách các chữ viết tắt WTO (World Tour Organisation) TBD (PATA) Sở VHTTDL TCDL UNESCO HDV TPHCM DN Bộ VH-TT  Tổ chức du lịch thế giới Hiệp hội Du lịch Châu Á Sở văn hóa thông tin du lịch Tổ chức du lịch Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của liên hiệp quốc( United Nations Educational Scientific and Cultural Organization) Hướng dẫn viên Thành phố Hồ Chí Minh Doanh nghiệp Bộ văn hóa- thông tin   Lời mở đầu Du lịch hiện nay đang ngày càng trở nên phổ biến và nó cũng thể hiện vai trò ngày càng lớn đối với nền kinh tế. Được coi là một ngành công nghiệp” không khói” , du lịch đã trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của rất nhiều quốc gia. Ngành du lịch Việt Nam ra đời muộn hơn so với các nước trên thế giới nhưng vai trò của nó thì không thế phủ nhận. Ngoài đem lại GDP cho đất nước nó còn giải quyết công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, đặc biệt là du lịch quốc tế đem lại ngoại tệ cho Việt Nam và góp phần truyền bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Thế nhưng, một thực trạng hiện nay đó là ngành du lịch Việt Nam thường đánh giá sự phát triển của mình dựa trên số lượng du khách gia tăng mà chưa chú ý đánh giá việc tăng chất lượng dịch vụ. Trong khi chất lượng mới là yếu tố giúp ngành du lịch phát triển bền vững và đạt được doanh thu cao. Theo một cuộc điều tra gần đây nhất thì chỉ có 15% khách du lịch nước ngoài quay trở lại Việt Nam để du lịch lần thứ 2, con số này so với thế giới thực sự là quá thấp. Tại sao nước ta cũng có những cảnh đẹp làm say lòng người không kém gì Thái Lan, Singapo như : Hạ Long, Đà Lạt, Chùa Hương…mà trong khi đó chúng ta không thể tận dụng để phát triển du lịch một cách chuyên nghiệp, để níu chân được du khách, để họ còn có ý định quay trở lại Việt Nam để du lịch hoặc giả nếu họ muốn giới thiệu cho bạn bè họ đến Việt Nam thì họ cũng cảm thấy tự hào khi đã giới thiệu một điểm đến lý tưởng? Đứng trước một thực trạng như vậy, bất kỳ ai yêu thiên nhiên, yêu cảnh đẹp ở Việt Nam đều cảm thấy tiếc nuối vì điều đó. Chúng em là một nhóm gồm 2 sinh viên, thực sự là rất muốn góp một phần công sức nào đó để có thể cải thiện tình hình du lịch ở nước ta hiện nay. Vì thế, chúng em đã chọn đề tài “ nghiên cứu mức độ thỏa mãn của người nước ngoài khi đi du lịch ở Việt Nam và một số giải pháp marketing nhằm nâng cao mức độ thỏa mãn của họ”. Do hạn chế của quá trình nghiên cứu nên bài viết vẫn còn nhiều thiếu sót, vì thế em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo hướng dẫn: TS Nguyễn Ngọc Quang. CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG DU LỊCH NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM. I. Vai trò của du lịch quốc tế đối với nền kinh tế. 1. Một số khái niệm cơ bản của du lịch Tổng thống Mexico Gustavo Diaz Ordaz đã từng nói: “Thế giới đừng bao giờ coi du lịch chỉ đơn thuần là một ngành kinh doanh, mà phải coi đây là một phương thức để con người có thể biết và hiểu lẫn nhau; việc hiểu được nhau của con người là bản chất quan trọng nhất của thế giới thực tại”. Du lịch có thể được định nghĩa là ngành khoa học, nghệ thuật và ngành kinh doanh bằng cách thu hút và chuyên chở khách thăm quan, cung cấp nơi ăn nghỉ và đáp ứng nhu cầu và ước muốn của du khách một cách tốt nhất. Mọi cố gắng nhằm định nghĩa về du lịch và mô tả bao quát về phạm vi của lĩnh vực du lịch đều phải xét đến các nhóm người khác nhau tham gia và chịu ảnh hưởng bởi nền công nghiệp này. Mối liên hệ giữa các nhóm này rất quan trọng cho việc đưa ra một định nghĩa toàn diện. Bốn mối liên hệ khác nhau của du lịch được phân biệt như sau: 1.Khách Du Lịch (The Tourist): Khách du lịch có nhiều nhu cầu khác nhau về tinh thần về vật chất và muốn nhận được sự thoả mãn. Bản chất của những vấn đề này sẽ cónquyết định rất lớn trong việc lựa chọn những điểm đến và các hoạt động vui chơi khác. 2.Các công ty cung cấp sản phẩm và dịch vụ du lịch (The business providing touristgoods and services): Những nhà kinh doanh coi du lịch là cơ hội để kiếm lời bằng cách cung cấp sản phẩm và dịch vụ mà thị trường khách du lịch yêu cầu. 3. Chính phủ tại địa bàn du lịch (The government of the host community or area): Các nhà chính trị quan niệm ngành du lịch như một nhân tố thịnh vượng trong nền kinh tế dưới thể chế của họ. Mối tương quan giữa chúng có quan hệ tới những thu nhập mà công dân của họ nhận được từ ngành kinh doanh này. Các nhà chính trị cũng chú trọng tới doanh thu về ngoại tệ có được từ du lịch quốc tế cũng như là khoản thuến thu được từ tiêu dùng của du khách dù là trực tiếp hay gián tiếp. 4. Dân chúng địa phương (The host community): Người dân địa phương thường quan niệm ngành du lịch là nhân tố văn hoá và tạo việc làm. Vấn đề quan trọng ảnh hưởng tới nhóm này đó là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa rất nhiều người nước ngoài và dân địa phương. Ảnh hưởng này có thể có lợi, có thể có hại, hoặc cả hai. Chính vì vậy, du lịch được định nghĩa là toàn bộ những hiện tượng và các mối quan hệ phát sinh từ việc trao đổi qua lại giữa khách du lịch, doanh nghiệp, chính phủ, và cộng đồng dân chúng địa phương trong quá trình thu hút và tiếp đón những du khách này. Một số khái niệm của Tổ chức Du lịch Thế giới – WTO (World Trade Organisation) về du lịch đã được Liên Hợp Quốc thừa nhận: - Du khách quốc tế (International Tourist): Là một người lưu trú trong một thời kỳ ít nhất là 1 đêm, nhưng không vượt quá 1 năm. - Du khách trong nước (Domestic Tourist): Là một người đang sống trong một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một nơi khác trong quốc gia đó khác nơi tường trú hiện tại trong thời gian ít nhất là 24 giờ và không vượt qua 1 năm với bất cứ mục đích gì ngoài làm việc để lĩnh lương ở nơi đến. Những thuật ngữ được Uỷ Ban Thống Kê Liên Hợp Quốc (United Nations StatisticalCommission) công nhận ngày 4/4/1993 theo đề nghị của WTO để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch: - Du lịch quốc tế (International Tourism): + Khách du lịch nước ngoài vào trong nước (Inbound Tourism): Gồm những nguời từ nước ngoài đến thăm một quốc gia. + Khách du lịch trong nước ra nước ngoài (Outbound Tourism): Gồm những người đang sống trong một quốc gia đi viếng thăm nước ngoài. - Du lịch của người dân trong nước (Internal Tourism): Gồm những người đang sống trong một quốc gia đi thăm quan trong nước. - Du lịch trong nước (Domestic Tourism): Gồm Inbound Tourism cộng với Internal Tourism. Đây là thị trường cho các cơ sở lưu trú trong nước và các nguồn thu hút khách du lịch của một quốc gia. - Du lịch quốc gia (National Tourism): Gồm Outbound Tourism cộng với Internal Tourism. Đây là thị trường cho các đại lý lữ hành và các hãng hàng không. Du lịch là một tổng thể các hoạt động, dịch vụ và các ngành công nghiệp đem lại hoạt động du lịch. Du lịch liên quan đến giao thông đi lại, nghỉ ngơi, ăn uống, mua sắm, giải trí, những tiện nghi du lịch, và những dịch vụ hiếu khách khác dành cho những khách lẻ hay đoàn đi du lịch. Nó bao gồm tất cả những nhà cung ứng và các dịch vụ dành cho khách. Du lịch là toàn bộ ngành công nghiệp du lịch thế giới, khách sạn, vận chuyển, và tất cả các thành phần khác, gồm cả chương trình xúc tiến phục vụ nhu cầu và mong muốn của du khách. Cuối cùng, du lịch là tổng các tiêu dùng của du khách trong vùng lãnh thổ của một nước hoặc vùng thuộc chính phủ hoặc khu vực kinh tế của các quốc gia tiếp giáp nhau. 2. Vai trò của ngành du lịch đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước Trong lịch sử nhân loại, du lịch đã được ghi nhận như là một sở thích, một hoạt động nghỉ ngơi tích cực của con người. Ngày nay, du lịch đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu được trong đời sống văn hóa, xã hội ở các nước. Về mặt kinh tế, du lịch đã trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của nhiều nước công nghiệp phát triển. Mạng lưới du lịch đã được thiết lập ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Các lợi ích kinh tế mang lại từ du lịch là điều không thể phủ nhận, thông qua việc tiêu dùng của du khách đối với các sản phẩm của du lịch. Nhu cầu của du khách bên cạnh việc tiêu dùng các hàng hoá thông thường còn có những nhu cầu tiêu dùng đặc biệt: nhu cầu nâng cao kiến thức, học hỏi, vãn cảnh, chữa bệnh, nghỉ ngơi, thư giãn… Sự khác biệt giữa tiêu dùng dịch vụ du lịch và tiêu dùng các hàng hoá khác là tiêu dùng các sản phẩm du lịch xảy ra cùng lúc, cùng nơi với việc sản xuất ra chúng. Đây cũng là lý do làm cho sản phẩm du lịch mang tính đặc thù mà không thể so sánh giá cả của sản phẩm du lịch này với giá cả của sản phẩm du lịch kia một cách tuỳ tiện được. Sự tác động qua lại của quá trình tiêu dùng và cung ứng sản phẩm du lịch tác động lên lĩnh vực phân phối lưu thông và do vậy ảnh hưởng đến các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. Bên cạnh đó, việc phát triển du lịch sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác, vì sản phẩm du lịch mang tính liên ngành có quan bệ đến nhiều lĩnh vực khác trong nền kinh tế. Khi một khu vực nào đó trở thành điểm du lịch, du khách ở mọi nơi đổ về sẽ làm cho nhu cầu về mọi hàng hoá dịch vụ tăng lên đáng kể. Xuất phát từ nhu cầu này của du khách mà ngành kinh tế du lịch không ngừng mở rộng hoạt động của mình thông qua mối quan hệ liên ngành trong nền kinh tế, đồng thời làm biến đổi cơ cấu ngành trong nền kinh tế quốc dân. Hơn nữa, các hàng hoá, vật tư cho du lịch đòi hỏi phải có chất lượng cao, phong phú về chủng loại, hình thức đẹp, hấp dẫn. Do đó nó đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng sáng tạo cải tiến, phát triển các loại hàng hoá. Để làm được điều này, các doanh nghiệp bắt buộc phải đầu tư trang thiết bị hiện đại, tuyển chọn và sử dụng công nhân có tay nghề cao đáp ứng được nhu cầu của du khách. Trên bình diện chung, hoạt động du lịch có tác dụng làm biến đổi cán cân thu chi của đất nước. Du khách quốc tế mang ngoại tệ vào đất nước có địa điểm du lịch, làm tăng thêm nguồn thu ngoại tệ của đất nước đó. Ngược lại, phần chi ngoại tệ sẽ tăng lên đối với những quốc gia có nhiều người đi du lịch ở nước ngoài. Trong phạm vi một quốc gia, hoạt động du lịch làm xáo trộn hoạt động luân chuyển tiền tệ, hàng hoá, điều hoà nguồn vốn từ vùng kinh tế phát triển sang vùng kinh tế kém phát triển hơn, kích thích sự tăng trưởng kinh tế ở các vùng sâu, vùng xa… Một lợi ích khác mà ngành du lịch đem lại là góp phần giải quyết vấn đề việc làm. Bởi các ngành dịch vụ liên quan đến du lịch đều cần một lượng lớn lao động. Du lịch đã tạo ra nguồn thu nhập cho người lao động, giải quyết các vấn đề xã hội. Ngày càng có nhiều quốc gia đưa ra những chính sách hấp dẫn cũng như các khoản đầu tư lớn nhằm thu hút và phát triển Du lịch theo hướng lâu dài bởi họ nhận thấy những lợi thế mà nó đem lại. Vị trí của du lịch trong nền kinh tế quốc dân càng đượckhẳng định. Xét về ý nghĩa kinh tế, đầu tư cho du lịch thu lại lợi nhuận nhiều và thu hồi vốn nhanh. Du lịch được coi là “ngành công nghiệp không khói” hay “ngòi nổ để phát triển kinh tế” trong vấn đề thu hút ngoại tệ, doanh thu từ du lịch cao, tạo nhiều công ăn việc làm... Du lịch là một ngành kinh tế mang lại lợi nhuận cao, có khả năng thu hồi vốn nhanh và bảo toàn được vốn. Theo nghiên cứu của Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) thì cứ 1 USD đầu tư vào công nghiệp đem lại 1,1 USD, nhưng 1 USD đầu tư vào du lịch sẽ mang lại 1,4 USD. Khi lợi nhuận tăng, tất nhiên nó sẽ đóng góp được nhiều hơn vào Ngân sách nhà nước cùng với nguồn ngoại tệ lớn góp phần cải thiện cán cân thanhtoán và phát triển nền kinh tế quốc dân. Đổi mới và đẩy mạnh phát triển du lịch sẽ tạo ra động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, kéo theo phát triển nhiều ngành kinh tế như xây dựng, giao thông vận tải, bưu điên, ngân hàng… Thực ra, khi du lịch phát triển hoặc khi chúng ta có chính sách phát triển du lịch thì tất yếu dòi hỏi về xây dựng cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống, các điểm du lịch, khách sạn, nhà hàng sẽ tăng lên. Một quốc gia có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp hay có bề dày văn hoá với những di tích lịch sử nổi tiếng, những kỳ quan nổi tiếng chắc chắn sẽ hấp dẫn khách du lịch nhưng quốc gia đó sẽ thu hút được lượng khách nhiều hơn nếu biết đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, biết tôn tạo và phát triển đúng hướng. Xét sâu xa hơn, du lịch và các ngành khác có mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau. Ví như ở một số quốc gia có hệ thống giao thông vận tải thuận tiện, ngành viễn thông và ngân hàng phát triển sẽ thúc đẩy khách du lịch đến với mình. Khi đến với Việt Nam, nhiều khách du lịch cảm thấy e ngại khi vẫn phải mang theo nhiều tiền mặt. Vì ở các nước phát triển, hầu hết việc thanh toán thông qua thẻ tín dụng và ngân hàng, hay qua Internet giúp khách du lịch thuận tiện trong việc đi lại, mua sắm, tiết kiệm được thời gian cho việc đi du lịch. Ngược lại, khi du lịch phát triển, nó sẽ buộc ngành ngân hàng tự cải tiến, nâng cao chất lượng phục vụ để cạnh tranh và thu hút khách hàng. Hơn nữa, du lịch phát triển kéo theo sự phát triển của các ngành công nông nghiệp và chế biến thực phẩm. Khi khách du lịch lưu trú ở một nước hoảng năm ngày, họ sẽ phải tiêu thụ một khối lượng lớn lương thực. Không phải xây dựng nhà máy, không phải đầu tư nhiều vào đóng gói, bảo quản và vận chuyển, nước này có thể tiêu thu tại chỗ một khối lượng lớn thực phẩm, tạo ra nhiều việc làm và thu hút được số luợng lớn ngoại tệ. 3. Vai trò của du lịch quốc tế Du lịch quốc tế là chiếc cầu nối của tình hữu nghị, tạo sự hiểu biết giao lưu giữa các dân tộc, tạo nên một thế giới hoà bình, thịnh vượng và tôn trọng lẫn nhau. Với vị trí kinh tế của du lịch như đã đề cập ở trên, nhiều nhà kinh tế còn gọi du lịch là “ngành xuất khẩu vô hình”: Xét trên phương diện kinh tế, doanh thu du lịch quốc tế được xếp ngang hàng với doanh thu xuất khẩu và tiêu dùng trong du lịch quốc tế được xếp cùng với nhập khẩu. Đối với nhiều nước, du lịch quốc tế là nguồn không thể thiếu được trong khoản lợi nhuận thu được từ ngoại tệ. Năm 2009, du lịch quốc tế và doanh thu từ vận chuyển hành khách đạt gần 8% tổng doanh thu xuất khẩu thực phẩm và Dịch vụ toàn cầu. Tổng doanh thu du lịch quốc tế, gồm cả lợi nhuận thu được từ vận chuyển du lịch quốc tế, ước tính đã tăng lên tới 555 tỷ USD, vượt qua tất cả các loại hình kinh doanh quốc tế khác. Theo tính toán của Tổ chức Du lịch Thế giới, thì trong cơ cấu chi tiêu của du khách, có tới 40% số tiền khách đi du lịch dùng chi vào việc mua sắm. Đây là nhu cầu cần thiết của khách mà du lịch phải tìm cách đáp ứng, và việc đáp ứng nhu cầu này có thể tạo ra nhiều lao động cũng như thu được nguồn ngoại tệ cho đất nước. Du lịch quốc tế cũng đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng các quan hệ kinh tế của các thương gia, các nhà đầu tư trong và ngoài nước thông qua việc khách du lịch kết hợp tham quan du lịch với việc tìm hiểu thị trường, môi trường đầu tư kinh doanh. Du lịch làm thay đổi sắc thái, cơ cấu kinh tế của mỗi vùng, mỗi địa phương và mỗi quốc gia. Thông qua việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch và các cung cấp dịch vụ khác, du lịch tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế huy động nguồn lực vật chất, lao động để phát triển kinh tế địa phương. Du lịch tạo điều kiện phát triển tới cả các vùng sâu, vùng xa, từ đó nâng cao trí thức, tạo việc làm và thu nhập cho người bản địa và từ đó tạo nên chính khoản đầu tư cho cuộc sống họ. Với vị trí kinh tế, chính trị, xã hội như vậy, du lịch quốc tế đã và đang ngày càng khẳng định vị trí của mình trong tổng thể nền kinh tế xã hội của mỗi nước, là mục tiêu phát triển của nhiều quốc gia. Như vậy, rõ ràng phát triển du lịch là mộthướng đi đúng đắn. Ngày nay cùng với xu thế toàn cầu hoá, thế giới ngày càng liên kết chặt chẽ hơn về mọi mặt, quan hệ giữa các quốc gia cũng trở nên mật thiết hơn. Hợp tác để phát triển kinh tế là mục đích của các nhà chính trị và các quốc gia. Việc tạo dựng ngôi nhà chung Châu Âu, hệ thống quy đổi đồng tiền chung đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập cảnh giữa các nước với nhau, dễ dàng trong việc thanh toán, kích thích nhu cầu đi lại thăm quan du lịch. Hơn nữa việc bùng nổ các phương tiện chuyên trở hiện đại ở mọi nơi mọi lúc giúp rút ngắn được thời gian hành trình, lưu trú, giảm chi phí cho du khách, kéo dài thời gian giải trí vốn eo hẹp của khách du lịch. Ngoài ra, Cuộc cách mạng Công nghệ Thông tin (Information Technology Revolution) đã phát triển rộng rãi trên toàn thế giới nhờ những tiến bộ toàn cầu hoá nền kinh tế. Và sự phát triển công nghệ thông tin liên lạc sẽ ngày càng đẩy nhanh sự cá nhân hoá. Điều này cũng phản ánh trong ngành công nghiệp du lịch. Một cá nhân giờ đây tuỳ ý lựa chọn điểm du lịch, đặt vé máy bay, chương trình du lịch, ăn nghỉ và thậm chí đặt du lịch tự chọn ngay tại nhà của mình. Thậm chí khoản tiền trả cho các công ty hàng không, các công ty du lịch, khách sạn... đều qua Internet, một phần của hệ thống thương mại điện tử. Nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn, thu nhập có thể tiêu dùng tăng, giáo dục phát triển, và mật độ thông tin tạo nên sự đa dạng trong việc lựa chọn và làm cho nhu cầu của du khách cũng nhiều hơn. Trong qúa trình phát triển, du lịch thế giới đã hình thành các khu vực lãnh thổ với các thị phẩn khách du lịch quốc tế khác nhau. Năm 1999, Châu Âu là khu vực đứng đầu với 58,7% thị phần khách du lịch quốc tế. Tiếp đó là Châu Mỹ với 19,3%, Đông Á - Thái Bình Dương 14,35%... Tuy nhiên bước vào thế kỷ XXI, hoạt động du lịch có xu hướng chuyển dịch sang khu vực Đông Á - Thái Bình Dương. Theo dự báo của Tổ chức Du lịch Thế giới đến 2010 khu vực Đông Á - Thái Bình Dương sẽ vượt Châu Mỹ, và trở thành khu vực đứng thứ 2 sau Châu Âu về đón khách du lịch quốc tế, với 22,08% thị phần và đến năm 2020 là 27,34%. II. THỰC TRẠNG DU LỊCH QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN HẠN CHẾ 1. Bối cảnh và tình hình quốc tế ảnh hưởng tới sự phát triển của du lịch quốc tế Việt Nam 1.1 Bối cảnh và tình hình quốc tế Hiện nay, mâu thuẫn thời đại vẫn còn tồn tại và phát triển. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, sắc tộc và tôn giáo, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi. Năm 2009, khủng hoảng kinh tế toàn cầu, thiên tai, dịch bệnh tác động không nhỏ tới ngành du lịch Việt Nam. Gần đây, cuộc khủng hoảng kinh tế xuất phát từ Mỹ, sau đó lan ra khu vực và nhiều nước khác trên thế giới cũng đã ảnh hưởng tới sự phát triển và hiện trạng của du lịch tạo nên bức tranh ảm đạm về nền du lịch thế giới. Ngành hàng không bị ảnh hưởng nặng nề, gây ra sự suy giảm lớn cho ngành kinh doanh khách sạn và toàn bộ hệ thốngphân phối trên toàn thế giới. Mặc dù vậy, thế giới vẫn tin tưởng vào sự phục hồi nhanh chóng của du lịch và dự báo đầy triển vọng về tốc độ tăng trưởng của trong tương lai gần 1.2 Kết quả của hoạt động kinh tế đối ngoaị và tình hình trong nước Trong bối cảnh hoà bình, nhu cầu du lịch tăng mạnh, du lịch thế giới đang phát triển nhanh với xu thế chuyển dần sang khu vực Đông Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Đây thực sự là một cơ hội tốt tạo đà cho Du lịch Việt Nam phát triển. Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế đối ngoại, trong đó có du lịch, phát triển. Đảng và Nhà nước đã quan tâm, chỉ đạo sát sao đối với sự nghiệp phát triển du lịch của đất nước. Du lịch được xác định là ngành kinh tế tổng hợp quan trọng trong cơ cấu kinh tế - xã hội của đất nước, đưa du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đặc điểm nổi bật nhất trong thời gian qua là công cuộc đổi mới tiếp tục được củng cố và thu được những thành tựu quan trọng. Mối quan hệ hợp tác quốc tế về du lịch ngày càng được mở rộng cả trong và ngoài khu vực, cả song phương và đa phương, ở cấp quốc gia, địa phương và doanh nghiệp. Du lịch Việt Nam đã tham gia tích cực đầy đủ hơn các nội dung hợp tác, tham gia đầy đủ các diễn đàn du lịch ASEAN (theo sáng kiến của Việt Nam, lần đầu tiên Hội Nghị Bộ trưởng Du lịch ASEAN + 3 (Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản) đ
Luận văn liên quan