Theo Hệ thống Tài khoản quốc gia (SNA) 1993 của Liên hiệp quốc
và tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), tất cả các hoạt động kinh
tế, mà thông tin về kết quả của những hoạt động này chƣa nằm trong nguồn
thông tin cơ bản phục vụ lập hệ thống tài khoản quốc gia đƣợc gọi là các
hoạt động kinh tế chƣa đƣợc quan sát (Non Obseved Economy-NOE), khu
vực kinh tế chƣa đƣợc quan sát bao gồm: Khu vực kinh tế ngầm, khu vực
kinh tế bất hợp pháp, khu vực kinh tế không chính thức, khu vực kinh tế tự
sản tự tiêu của hộ gia đình
20 trang |
Chia sẻ: thientruc20 | Lượt xem: 432 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu nội dung và phương pháp thu thập thông tin của khu vực kinh tế chưa được quan sát trong thống kê tài khoản quốc gia của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
237
ĐỀ TÀI KHOA HỌC
SỐ: 09-2004
NGHIÊN CỨU NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP THU THẬP
THÔNG TIN CỦA KHU VỰC KINH TẾ CHƢA ĐƢỢC QUAN SÁT
TRONG THỐNG KÊ TÀI KHOẢN QUỐC GIA CỦA VIỆT NAM
1. Đề tài cấp : Cơ sở
2. Thời gian nghiên cứu : 2004
3. Đơn vị chủ trì : Vụ Hệ thống Tài khoản Quốc gia
4. Đơn vị quản lý : Viện Khoa học Thống kê
5. Chủ nhiệm đề tài : CN. Nguyễn Văn Minh
6. Những ngƣời phối hợp nghiên cứu:
CN. Hoàng Phƣơng Tần
CN. Nguyễn Văn Nông
7. Kết quả bảo vệ: Loại khá
238
PHẦN THỨ NHẤT
KHÁI NIỆM VÀ NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA KHU VỰC KINH TẾ
CHƢA ĐƢỢC QUAN SÁT THEO QUAN NIỆM CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ
I. KHÁI NIỆM
Theo Hệ thống Tài khoản quốc gia (SNA) 1993 của Liên hiệp quốc
và tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), tất cả các hoạt động kinh
tế, mà thông tin về kết quả của những hoạt động này chƣa nằm trong nguồn
thông tin cơ bản phục vụ lập hệ thống tài khoản quốc gia đƣợc gọi là các
hoạt động kinh tế chƣa đƣợc quan sát (Non Obseved Economy-NOE), khu
vực kinh tế chƣa đƣợc quan sát bao gồm: Khu vực kinh tế ngầm, khu vực
kinh tế bất hợp pháp, khu vực kinh tế không chính thức, khu vực kinh tế tự
sản tự tiêu của hộ gia đình.
1. Khu vực kinh tế ngầm
Là hoạt động sản xuất, tạo ra các sản phẩm hàng hoá/vật chất và dịch
vụ hợp pháp nhƣng chủ thể (ngƣời tiến hành sản xuất, kinh doanh) vì các
lý do lợi nhuận, hoặc các lý do nào đó cố tình che giấu các cơ quan chức
năng nhằm giảm các loại thuế phải nộp nhƣ thuế giá trị gia tăng (VAT)
hoặc thuế thu nhập,; giảm các khoản đóng góp cho xã hội theo qui định
của pháp luật; tránh đáp ứng về các tiêu chuẩn lao động nhằm tiết kiệm chi
phí sản xuất; tránh việc đăng ký, trả lời, ghi chép các cuộc điều tra hành
chính hoặc điều tra thống kê.
2. Khu vực kinh tế bất hợp pháp
Là hoạt động sản xuất tạo ra các sản phẩm hàng hoá/vật chất và dịch
vụ bị luật pháp cấm, hoặc sản phẩm hàng hoá và dịch vụ vốn là hợp pháp
nhƣng trở thành bất hợp pháp do các nhà sản xuất không hợp pháp sản xuất
ra. Trong nhóm này bao gồm các đơn vị sản xuất không đăng ký và cả
những đơn vị có đăng ký kinh doanh các ngành nghề hợp pháp nhƣng
không kinh doanh đúng với hoạt động đã đăng ký.
3. Khu vực kinh tế không chính thức
Khu vực kinh tế không chính thức bao gồm các đơn vị sản xuất ra
sản phẩm hàng hoá/vật chất và dịch vụ hợp pháp, sản phẩm sản xuất ra có
239
thể đem bán trên thị trƣờng, nhƣng với trình độ tổ chức sản xuất ở mức độ
thấp, ngƣời sản xuất không có tƣ cách pháp nhân, hầu nhƣ không có đăng
ký kinh doanh. Đó là đặc điểm của các đơn vị sản xuất hàng hoá và dịch vụ
nhỏ dạng doanh nghiệp không có tƣ cách pháp nhân đƣợc điều hành bởi
một hộ gia đình hoặc thành viên hộ gia đình. Phạm trù đơn vị sản xuất ở
đây cần đƣợc hiểu theo nghĩa rộng, không phải chỉ có các đơn vị có thuê
lao động mới coi là đơn vị sản xuất, thậm chí những cá nhân hoạt động đơn
lẻ tiến hành các hoạt động kinh doanh nhƣ: Ngƣời bán dạo trên hè phố,
ngƣời lái tắcxi... cũng đƣợc coi là 1 đơn vị sản xuất.
4. Kinh tế tự sản tự tiêu của hộ gia đình
Kinh tế tự sản tự tiêu của hộ gia đình là hoạt động sản xuất tạo ra sản
phẩm vật chất và dịch vụ của hộ gia đình để tự tiêu dùng và tự tích luỹ cho
chính các thành viên hộ gia đình. Kinh tế tự sản tự tiêu của hộ gia đình bao
gồm các hoạt động trồng trọt, chăn nuôi tự sản tự tiêu, ngoài ra SNA và
OECD qui định dịch vụ nhà tự có tự ở cũng thuộc nhóm này. Tuy nhiên,
đối với khu vực kinh tế này, theo tài khoản quốc gia 93 thì khái niệm về
sản xuất đƣợc qui định một cách rõ ràng là các hoạt động tự sản tự tiêu hộ
gia đình không bao gồm “Các hoạt động đƣợc tiến hành trong nội bộ của
hộ gia đình hoặc là các dịch vụ của cá nhân trong hộ gia đình, do các thành
viên của chính hộ thực hiện, phục vụ cuộc sống thƣờng nhật hàng ngày (tự
nấu cơm, tự giặt quần áo, tự lau nhà) cho chính các thành viên trong hộ
gia đình đó, ngoại trừ các hoạt động làm thuê trong hộ gia đình”.
II. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA KHU VỰC KINH TẾ CHƢA ĐƢỢC
QUAN SÁT
1. Khu vực kinh tế ngầm
a. Đơn vị sản xuất, kinh doanh thiếu sự hợp tác vì các lý do thống
kê, tài chính,
- Thiếu sự hợp tác
- Đăng ký không đúng
- Các nguyên nhân thống kê khác trong quá trình tổ chức điều tra.
b. Đơn vị sản xuất, kinh doanh thiếu hợp tác vì các lý do kinh tế
240
- Khai báo sai, không khai báo các hoạt động sản xuất kinh doanh
với các cơ quan chức năng.
- Cố ý không đăng ký.
Ngoài ra, các hoạt động của kinh tế ngầm còn được biểu hiện
thông qua:
- Trốn thuế;
- Buôn bán qua biên giới không khai báo;
- Trao đổi hàng hoá lậu (không phải hàng quốc cấm);
- Chuyển đổi tài sản ra nƣớc ngoài,v.v
2. Khu vực kinh tế bất hợp pháp
- Sản xuất hay phân phối các sản phẩm bất hợp pháp nhƣ các sản
phẩm ma tuý hay khiêu dâm;
- Thực hiện các dịch vụ bất hợp pháp nhƣ sản xuất, buôn bán thuốc
phiện, mại dâm;
- Các hoạt động về bản chất là hợp pháp, nhƣng những hoạt động
này sẽ trở thành bất hợp pháp do những ngƣời không có quyền sản xuất
kinh doanh, hành nghề nhƣ bác sỹ, dƣợc sỹ hành nghề mà không có giấy
phép,
- Sản xuất lậu hay bán các sản phẩm không có bản quyền nhƣ đĩa
CD, video;
- Buôn lậu (hàng quốc cấm): thuốc lá, rƣợu, ngƣời;
- Mua, bán hàng ăn trộm;
- Rửa tiền;
- Hối lộ.
3. Khu vực kinh tế không chính thức
Khu vực kinh tế không chính thức đóng vai trò quan trọng trong nền
kinh tế và thị trƣờng lao động, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát
triển.
241
Các đơn vị trong khu vực kinh tế không chính thức tiến hành các
hoạt động sản xuất sản phẩm hàng hoá/vật chất và dịch vụ với mục đích
chính là tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho những ngƣời tham gia
trong đơn vị. Các đơn vị này cơ bản đƣợc tổ chức một cách đơn sơ so với
một doanh nghiệp, yếu tố lao động và vốn không đóng vai trò quan trọng
trong quá trình sản xuất và là đơn vị có qui mô nhỏ. Quan hệ về lao động
trong các đơn vị này nếu có chủ yếu dựa vào nhân lực không thƣờng
xuyên, mang tính chất quan hệ họ hàng, quan hệ xã hội cá nhân với nhau
chứ không phải là dạng lao động thuê mƣớn có ký kết hợp đồng theo qui
định của pháp luật.
Hệ thống tài khoản quốc gia 1993 xem xét khu vực kinh tế không
chính thức là phần phụ của khu vực hộ gia đình. Nói cách khác các đơn vị
thuộc khu vực kinh tế không chính thức đƣợc xác định là một tập hợp con
của doanh nghiệp không có tƣ cách pháp nhân do hộ gia đình điều hành.
4. Khu vực kinh tế tự sản tự tiêu của hộ gia đình
Hiện nay, nhiều nƣớc trên thế giới, kinh tế hộ gia đình vẫn đóng một
vai trò quan trọng. Sản phẩm là vật chất và dịch vụ do hộ gia đình sản xuất
ra có thể đem bán trên thị trƣờng, cũng có thể đƣợc giữ lại sử dụng cho tiêu
dùng của chính hộ gia đình. Đây cũng là lý do cơ bản giải thích tại sao
NOE phải phân biệt 2 khu vực kinh tế: Khu vực kinh tế không chính thức
và khu vực kinh tế tự sản tự tiêu của hộ gia đình. Đối với khu vực kinh tế
không chính thức, có hai đối tƣợng tham gia vào quá trình sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm, đó là ngƣời sản xuất và ngƣời mua. Còn đối với khu vực
kinh tế tự sản tự tiêu của hộ gia đình, quá trình sản xuất và tiêu thụ hoàn
toàn khép kín và chủ yếu một đối tƣợng tham gia, đó là bản thân hộ gia
đình. Việc phân chia ra 2 khu vực kinh tế trên đây cũng nhằm giúp cho
việc thu thập thông tin về mỗi khu vực đƣợc thuận tiện hơn.
Giá trị của các hoạt động mang tính tự sản tự tiêu của hộ gia đình
đƣợc xác định là một phần kết quả sản xuất của nền kinh tế, nó bao gồm:
- Hộ gia đình sản xuất sản phẩm vật chất để tự tiêu dùng bao gồm
sản phẩm ngành nông, lâm, thuỷ sản và sản xuất chế biến khác để tự tiêu
dùng và tự tích luỹ tài sản cố định;
242
- Hộ gia đình sản xuất tạo ra các sản phẩm dịch vụ để tự tiêu dùng.
4.1. Hộ gia đình sản xuất sản phẩm vật chất để tự tiêu dùng.
Hệ thống tài khoản quốc gia 1993 khuyến nghị rằng giá trị của các
hoạt động sản xuất sản phẩm vật chất để tự tiêu dùng của hộ gia đình cần
đƣợc ƣớc tính trong trƣờng hợp giá trị của các hoạt động này đóng góp một
phần quan trọng trong tổng giá trị của nền kinh tế. SNA 1993 cung cấp
danh mục các loại hàng hoá chủ yếu cần tính, đó là:
- Sản phẩm sản xuất nông nghiệp và phần tích trữ của chúng
- Sản xuất các sản phẩm thô
- Chế biến sản phẩm nông nghiệp
- Các công việc khác nhƣ dệt quần áo, may áo dài
a. Sản xuất nông nghiệp để tự tiêu dùng
- Đối với các hoạt động sản xuất nông nghiệp mang tính mùa vụ,
chăn nuôi gia súc phục vụ cho tự tiêu dùng của hộ gia đình thì phần lớn các
nƣớc đang phát triển đều ƣớc tính giá trị của các hoạt động này vào số liệu
tài khoản quốc gia. Tuy nhiên, nhiều trƣờng hợp ngƣời nông dân cất trữ
một phần sản phẩm của họ để tiêu dùng và bán phần sản phẩm còn lại.
Phần giữ lại để tiêu dùng cuối cùng, thƣờng đƣợc Thống kê tài khoản quốc
gia ƣớc tính bằng cách tính tỷ lệ sử dụng sản phẩm so với tổng sản phẩm
đƣợc sản xuất ra.
b. Sản xuất sản phẩm khác để tự tiêu dùng
- Sơ chế sản phẩm nông nghiệp
- Sản xuất một số sản phẩm thuộc ngành công nghiệp
- Xây dựng nhà ở
4.2. Sản xuất sản phẩm dịch vụ hộ gia đình để tự tiêu dùng
Chỉ có 2 loại dịch vụ của hộ gia đình dƣới đây đƣợc SNA 93 quy
định là thuộc phạm vi sản xuất, bao gồm:
+ Dịch vụ làm thuê trong hộ gia đình,
243
+ Dịch vụ về nhà tự có tự ở.
Dƣới đây là sơ đồ tổng quát mô tả về khu vực kinh tế chƣa đƣợc
quan sát theo tiêu chuẩn của tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển
(Organisation of Economic Cooperation and Development – OECD).
SƠ ĐỒ KHU VỰC KINH TẾ CHƯA ĐƯỢC QUAN SÁT
KHU VỰC KINH TẾ CHƯA
ĐƯỢC QUAN SÁT
Khu vực kinh tế
ngầm
Khu vực kinh tế bất
hợp pháp
Khu vực kinh tế
không chính thức
Tự sản tự tiêu của
hộ gia đình
Trốn thuế
Buôn lậu
Buôn bán qua biên giới
Trao đổi hàng hoá lậu
Chuyển tàI sản ra nƣớc
ngoài
- v.v
Sản xuất buôn bán ma
tuý, SP sex
Hoạt động mại dâm
Hoạt động kinh doanh
không có giấy phép
Vi phạm bản quyền
Mua bán hàng ăn trộm
- v.v
Các đơn vị (tự hạch
toán) không đăng ký
Các đơn vị (tự hạch
toán) không đăng ký
lao động làm thuê
- v.v
Các hoạt động tự
sản tự tiêu của hộ
gia đình:
- Sản xuất hàng
hoá vật chất
- Sản xuất dịch vụ
Các đơn vị không khai
báo hoặc khai báo không
đầy đủ
244
PHẦN THỨ II
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN VÀ THỰC TRẠNG THU THẬP THÔNG TIN
TÍNH TOÁN CÁC HOẠT ĐỘNG CỦA KHU VỰC KINH TẾ
CHƢA ĐƢỢC QUAN SÁT Ở VIỆT NAM
I. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA KHU VỰC KINH TẾ CHƢA ĐƢỢC
QUAN SÁT Ở VIỆT NAM
Cho đến nay ở Việt Nam chƣa có tài liệu nào đi sâu nghiên cứu về
bản chất, nội dung của khu vực kinh tế chƣa đƣợc quan sát. Đối với các
nền kinh tế đang phát triển thì khu vực kinh tế nằm ngoài sự kiểm soát của
Nhà nƣớc có quy mô và vai trò to lớn. Trong thực tế, các nƣớc đang phát
triển có những trình độ phát triển rất khác nhau, có những quan điểm chính
sách rất khác nhau về các khu vực kinh tế và các hoạt động kinh tế. Do
vậy, tiếp cận nghiên cứu đối với khu vực kinh tế này phải vừa tổng hợp,
vừa cụ thể cho từng nƣớc, vì mỗi nƣớc đều có phong tục tập quán của riêng
mình.
1/ Khu vực kinh tế ngầm, Thống kê tài khoản quốc gia Việt Nam
không đƣa hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp, thuỷ sản thuộc thành phần kinh tế cá thể vào khu vực kinh tế này,
nghĩa là không có trong khu vực kinh tế chƣa đƣợc quan sát.
2/Khu vực kinh tế bất hợp pháp ở Việt Nam không bao gồm các
hoạt động buôn bán ma túy, hoạt động mại dâm, hoạt động đánh bạc không
đăng ký, hoạt động cá cƣợc, vì theo quy định của Nhà nƣớc Việt Nam các
hoạt động trên bị nghiêm cấm, không theo dõi đƣợc và với ý nghĩa là
không có ích cho xã hội nên không thuộc phạm trù sản xuất. Riêng hoạt
động buôn bán bất hợp pháp qua biên giới cần đƣợc khảo sát thực tế để
tính bổ sung cho chỉ tiêu xuất, nhập khẩu.
3/Khu vực kinh tế không chính thức: Theo thống kê tài khoản quốc
gia của Việt Nam bao gồm các hoạt động sau:
- Hiện nay nhiều ngành, nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam thực
hiện chế độ khoán nhƣ khoán doanh thu trong ngành vận tải và ngành
thƣơng nghiệp, nên phải tính vào khu vực này phần gía trị vƣợt khoán.
245
- Các loại hình sản xuất về dịch vụ nhƣ môi giới thƣơng mại, khám
chữa bệnh tại nhà, dạy thêm, dạy kèm, trông trẻ tại gia do các cá nhân và
hộ gia đình thực hiện.
- Hoạt động của ngƣời nông dân ra thành phố, thị xã làm việc trong
thời gian nông nhàn.
4/ Kinh tế tự sản tự tiêu của hộ gia đình
Đối với các hộ nông thôn
- Giá trị sản xuất của các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản
tính theo phƣơng pháp lấy khối lƣợng sản phẩm nhân với (x) đơn giá bình
quân trong năm, vì vậy khối lƣợng sản phẩm tự sản tự tiêu đã đƣợc vụ
Thống kê nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tính. Tuy vậy, trong thực tế sản
phẩm của các hoạt động thu nhặt, hái lƣợm để tiêu dùng tự túc chƣa tính
đƣợc đầy đủ.
- Giá trị sản xuất của các hoạt động chế biến nhƣ làm lƣơng thực,
thực phẩm, để phục vụ cho gia đình chƣa đƣợc thống kê.
- Giá trị sản xuất của các hoạt động tự cung tự cấp khác nhƣ xây
dựng, sửa chữa nhà ở, phần nhân dân đóng góp cho việc xây dựng các công
trình công cộng nhƣ trƣờng học, mạng lƣới điện, đƣờng đi, các công trình
thuỷ nông nội đồng, cũng chƣa đƣợc tính đầy đủ.
Đối với các hộ ở thành thị
Các hoạt động tự xây dựng nhỏ, sửa chữa nhà cửa bằng hình thức
một ngƣời tổ chức cho nhóm ngƣời cùng làm. Nguồn thông tin để tính giá
trị nhà tự có tự ở của dân cƣ khu vực thành thị rất hạn chế.
II THỰC TRẠNG THU THẬP THÔNG TIN TÍNH TOÁN CÁC HOẠT ĐỘNG
CỦA KHU VỰC KINH TẾ CHƢA ĐƢỢC QUAN SÁT Ở VIỆT NAM
Hiện nay thống kê tài khoản quốc gia Việt Nam tính chỉ tiêu Tổng
sản phẩm trong nƣớc (GDP) chủ yếu theo phƣơng pháp sản xuất, các
phƣơng pháp thu nhập và sử dụng mang tính tham khảo và đối sánh. Theo
sự phân công trong Tổng cục thống kê, các vụ thống kê chuyên ngành tính
chỉ tiêu Giá trị sản xuất theo giá thực tế và giá so sánh, vụ Hệ thống tài
khoản quốc gia tổng hợp chung và tính chỉ tiêu Giá trị tăng thêm cho từng
246
ngành và GDP cho toàn quốc. Như vậy phương pháp tính và bố trí thông
tin để ước tính Giá trị sản xuất của các hoạt động kinh tế thuộc NOE cần
xem xét theo ngành kinh tế và do các vụ thống kê chuyên ngành đảm
nhiệm.
Về phƣơng pháp tính: các hoạt động sản xuất thuộc ngành nào thì
phƣơng pháp tính Giá trị sản xuất, Chi phí trung gian, Giá trị tăng thêm
phải tuân thủ theo các chế độ thống kê đã đƣợc Tổng cục Thống kê ban
hành. Phƣơng pháp điều tra, chọn mẫu và suy rộng đối với các cuộc điều
tra thống kê cho các chuyên ngành cũng đã đƣợc quy định trong các chế độ
thống kê đó. Ở đây chúng tôi xem xét thực tế thông tin phục vụ cho
phƣơng pháp tính đó dựa vào các khái niệm về NOE đã nêu trên.
Để phù hợp với nguồn thông tin của thống kê Việt Nam trong những
năm 1990 và đầu những năm 2000, chúng tôi phân thành 2 nhóm để nghiên
cứu nguồn thông tin và xây dựng phƣơng pháp tính.
- Nhóm thứ nhất là các đơn vị sản xuất kinh doanh có báo cáo tài
chính hàng năm.
- Nhóm thứ hai là các đơn vị sản xuất không đăng ký kinh doanh,
các hộ gia đình có tham gia sản xuất và các hoạt động sản xuất khác.
1. Các đơn vị sản xuất kinh doanh có báo cáo tài chính hàng năm.
Nhóm các đơn vị sản xuất kinh doanh có báo cáo tài chính hàng
năm, đƣợc chia thành hai nhóm nhỏ: các đơn vị sản xuất thực hiện báo báo
tài chính theo mẫu do Bộ Tài chính ban hành và các đơn vị có báo cáo tài
chính nhƣng làm theo mẫu không đúng với qui định của Bộ Tài chính.
Đối với các đơn vị sản xuất thực hiện báo cáo tài chính theo mẫu do
Bộ Tài chính ban hành và các báo cáo Thống kê định kỳ quy ƣớc là “đã
đƣợc quan sát”. Nhóm này bao gồm cả xuất khẩu và nhập khẩu chính thức,
Tổng cục Thống kê khai thác thông tin qua báo cáo của Tổng cục Hải
quan.
Đối với các đơn vị sản xuất có đăng ký kinh doanh, thực hiện báo
cáo tài chính và thống kê nhƣng không theo mẫu do Bộ Tài chính và Tổng
cục Thống kê ban hành. Để sử dụng thông tin từ báo cáo của các đơn vị
247
này cần tiến hành điều tra bổ sung để điều chỉnh nội dung các chỉ tiêu trong
báo cho phù hợp với mẫu của Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê.
Trong loại đơn vị sản xuất này, có các hiện tƣợng khai sai doanh
thu, khai không đúng chi phí sản xuất để trốn thuế và trốn tránh nghĩa vụ
đóng bảo hiểm xã hội hoặc đăng ký kinh doanh trá hình cho các hoạt động
bất hợp pháp, hoặc sản xuất không đúng số lƣợng đƣợc cho phép.
2. Các đơn vị sản xuất không đăng ký kinh doanh, các hộ gia đình có
tham gia sản xuất và các hoạt động sản xuất khác.
Trong nhóm này bao gồm rất nhiều hoạt động sản xuất đƣợc xem là
hoạt động kinh tế chƣa đƣợc quan sát.
2.1. Hoạt động của các đơn vị sản xuất nhỏ, lẻ, không có báo cáo tài
chính. Hàng năm cơ quan thuế thu của các đơn vị này một số tiền nhỏ có
tính chất nhƣ thuế môn bài hoặc Nhà nƣớc không thu thuế mà chỉ có một
khoản lệ phí nhỏ nộp cho chính quyền địa phƣơng cấp xã, phƣờng đƣa vào
Ngân sách để chi tiêu cho các hoạt động của xã, phƣờng. Để có thông tin
về tình hình sản xuất, lao động và chi tiêu của các đơn vị này, các vụ thống
kê chuyên ngành của Tổng cục Thống kê có các cuộc điều tra mẫu định kỳ
thu thập các thông tin cần thiết và tính vào Giá trị sản xuất của các ngành
hàng năm, vụ thống kê Tài khoản quốc gia sử dụng các số liệu này phục vụ
cho việc biên soạn hệ thống tài khoản quốc gia. Có thể nêu thí dụ:
- Năm 2002, Tổng cục Thống kê đã tiến hành Tổng điều tra các cơ
sở kinh tế, hành chính, sự nghiệp. Trong kết quả của cuộc điều tra này
thống kê đƣợc số lƣợng của các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể không có
đăng ký kinh doanh, phân theo các ngành kinh tế (không bao gồm nông,
lâm, ngƣ nghiệp), kết quả này cũng là cơ sở để các vụ Thống kê chuyên
ngành sử dụng cho các cuộc điều tra chọn mẫu hàng năm.
- Vụ thống kê Công nghiệp và Xây dựng: điều tra mẫu định kỳ các
đơn vị cá thể thời điểm 31/12 hàng năm (Tổng số đơn vị loại này theo điều
tra năm 2002 là 927.732).
- Vụ thống kê Thƣơng mại, Giá cả và Dịch vụ: điều tra thƣơng
nghiệp, khách sạn, nhà hàng, du lịch, dịch vụ ngoài quốc doanh thời điểm
01/7 hàng năm. Tổng số đơn vị loại này theo điều tra năm 2002 là
248
1.644.534. Từ năm 2003 đến nay điều tra toàn bộ số lƣợng cơ sơ sản xuất
kinh doanh cá thể, điều tra mẫu kết quả, chi phí sản xuất kinh doanh cá thể
trong tất cả các ngành kinh tế (trừ các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và
thuỷ sản) hiện có tại thời điểm 1/10/2004.
Tuy nhiên trong thực tế kết quả điều tra mẫu này còn hạn chế do số
lƣợng các đơn vị này luôn thay đổi làm ảnh hƣởng đến dàn mẫu, phƣơng
pháp chọn mẫu và cả phƣơng pháp thống kê và suy rộng. Chƣa nói đến sự
giấu giếm của các cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể, khai thấp doanh thu,
khai tăng chi phí sản xuất kinh doanh.
- Vụ thống kê Xã hội và Môi trƣờng có các báo cáo về giáo dục, y tế,
văn hoá thông tin,thời điểm 31/12 hàng năm
2.2. Vụ thống kê Tài khoản quốc gia có tiến hành một vài cuộc điều
tra về thu chi Ngân sách xã, phƣờng, trong đó có khoản thu đóng góp của
các đơn vị sản xuất loại này, tính tỷ lệ so với khoản thu từ Ngân sách Nhà
nƣớc để ƣớc tính cho một số năm.
2.3. Hoạt động của các đơn vị vô vị lợi phục vụ hộ gia đình nhƣ nhà
thờ, chùa, các hội từ thiện. Trong các cuộc điều tra chọn mẫu do Thống kê
tài khoản quốc gia tổ chức có nội dung điều tra thu chi của các hoạt động
này, kết quả đƣợc sử dụng để ƣớc tính cho các năm không có điều tra.
2.4. Hoạt động sản xuất của hộ gia đình rất đa dạng và rất thiếu
thông tin để tính toán. Nguồn thông tin chủ yếu để ƣớc tính sản xuất của
các hộ gia đình là điều tra mẫu 2 năm một lần do thống kê Xã hội và Môi
trƣờng thực hiện.
Đối với các hộ nông thôn:
Về nguyên tắc, giá trị sản xuất của các ngành nông nghiệp, lâm
nghiệp và thuỷ sản tính theo phƣơng pháp lƣợng nhân với giá, tức là bằng
khối lƣợng sản phẩm nhân với (x) đơn giá bình quân trong năm